Đi! Đây Việt Bắc: thơ kháng chiến Trần Dần (do Thái Linh gửi)
Bài thơ Việt Bắc do nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 1990 là tập thơ đầu tiên được in của Trần Dần sau thời Nhân Văn Giai Phẩm. Tên gốc của tập thơ là Ði! Ðây Việt Bắc! một trường ca sáng tác năm 1957, gồm 13 chương mà chương thứ 13 là bài Hãy đi mãi đã được đăng trên báo Văn số 28 ra ngày 15/11/1957. Ở lần xuất bản năm 1990, bài Hãy đi mãi vẫn bị loại bỏ và tập thơ được đổi tên là Bài thơ Việt Bắc.
Bài thơ toát ra hùng khí của một Trần Dần chiến sĩ. Kháng chiến "trần truồng": Ðứng và Ði. Mạch thơ chảy như nước, từ những chữ đầu tiên:
Ðây!
Việt Bắc
Sông Lô
nước xanh
tròng trành mảnh nguyệt!
Bình ca
sương xuống
lạc
con đò!
Ðáy dạ thời gian
còn đọng
những tên
Như
Nà Phạc
Phủ Thông
Ðèo thùng
Khau vác.
(trang 5)
Nếu có ảnh hưởng Maïakovski ở chỗ leo thang thì cũng chỉ là ảnh hưởng hình thức. Nội dung vẫn là nội dung Trần Dần. Trần Dần tượng trưng. Trước hết là âm điệu: một nhịp hùng ca, một nhịp quân hành. Nhưng không phải quốc thiều mà là nhạc rừng, nhạc núi, nhạc nội tâm của người lính "mỗi đêm từ biệt một quê hương". Người lính ấy mang tâm sự của người dân mất nước, nhưng còn gánh cả những khổ đau của con người đói khát tự do:
Tôi mất quê hương
từ khi
mới đẻ.
Mất
nước đỏ phù sa sông Hồng
Mất vịnh Hạ Long
Mất Huế
con sông Hương tình tự.
Mất
cửa biển Hải Phòng.
Mất mũi Cà Mau!
Tôi mất
những mùa thu
không én liệng.
Mất
mùa xuân
nhạt nhẽo cành đào.
Ngày đã mất
những mặt trời
không ấm nữa
Ðêm
lại còn
mất nốt
chiêm bao,
Tôi đói tự do
như
những bến tàu,
đói hàng hóa
đói thuyền khơi
đói biển.
(trang 29, 30)
Người lính Dần có ý thức về mình, người lính Dần đã vượt ra ngoài ý thức rập khuôn của đám đông tập thể, người lính Dần không hô khẩu hiệu, không bị lóa mắt vì hào quang hão huyền, người lính Dần nhìn thấy những khổ đau của đồng đội, người lính Dần nhìn thấy những chết chóc của chiến tranh:
Hố mắt bạn tôi
sâu như nấm huyệt
Có thể chôn
một chiếc quan tài
(trang44)
và người lính ấy đã nhìn thấy mình:
Bên suối
bao phen
tôi ôm ấp
nắng đào
chưa sấy
được nắm xương
ẩm mục
Nằm co quắp
trên sàn
lên cơn sốt
(trang 46)
và người lính ấy đã nhìn thấy người khác:
Mắt vàng sâu
thành
những cục nghệ vàng
Như ở một "suối vàng" nào
những tia mắt nghệ
lặng
nhìn nhau;
Nạn đói
kéo dài
ba tháng
Đêm hè
ngủ vẫn đắp chăn bông.
Bên đầu bản
họ ngồi
kêu
ngán ngẫm.
Chúng tôi ra vào
như
một rừng cây
trụi hết lá
trơ cành
khô khẳng
Sương từng đống
chất ùn
bên ngưỡng cửa
5 giờ chiều! Tôi ngã vật giữa cao nguyên.
(trang 48)
Việt Bắc của Trần Dần, không bịa đặt, không rừng hoa, biển cờ tiễn người ra trận, mà có rừng bệnh, biển đói chắn bước hành quân, trong một vùng núi rừng từ ấy đã thôi Tố Hữu mà rất Trần Dần:
Gió càng lên
thổi tắt
ít tinh cầu
Roi rét
quất tím bầm
mình mẩy những đêm thâu.
Ngang ngọn núi
đoàn quân
pháo thủ
ôm hàng tấn sắt
trên lưng.
Không còn là người
toàn bắp thịt không
Gân cốt
cuộn
từng búi thừng
búi chão!
....
Cả nước
thức ngàn
ngàn
đêm trắng
Mắt mở to
như cửa ngỏ
đen ngòm
Người dân nước
đã hóa thân
cò
vạc
chui bờ
rúc bụi
sống về đêm.
(trang 58- 59- 60)
Tác phẩm Ði! Ðây Việt Bắc! của Trần Dần đã rửa tội cho những bài thơ kháng chiến cùng thời: cho những lấm lem, gian dối, đối với những người đã chết. Khâm liệm những lầm than đau khổ của những người còn sống. Đào thải những hào quang bịa đặt, những giá trị khả nghi. Trần Dần vạch sự thực trên thơ, về "10 cây số máu". Những chữ của trần Dần vừa vẽ chiến tranh, vừa đả đảo chiến tranh. Trong trận Ðiện Biên, chữ chui xuống hầm, lẩn vào hậu trường của người lính:
Tôi ngồi viết
trong hầm
căng bạt kín
Con đom đóm đèn
thiếu thở
mắt lim dim
Chỉ sáng đủ
đôi ba
dòng chữ.
Nếu như lọt
ra ngoài đêm
một tia sáng nhỏ
trái phá
sẽ
sầm sầm
xô đến
chôn ta!
Nơi đây
hút thuốc
phải trùm chăn...
Kẻo
bom nghiến
rừng ta
thành
cám bụi
Cái chết
rình con người
rình ta
cả
bữa ăn
cùng giấc ngủ.
....
Nơi đây
đã chết
ngọn đồi xanh.
Góc nọ
một rừng cây
ngã gục
(trang 86, 87)
Cuộc sống quanh tôi
mưa nắng
ngập hào,
Gian hầm nhỏ
nước vào
hôi hám
Nắm cơm xôi
nhão nhoét
trộn đen ruồi
Sống như đây
đã chết
một mùa đông
Mùa xuân đến
cũng còn
đang ngắc ngoải
(trang 90)
Sau những lời hùng của người chiến sĩ, lời bi hướng về người hấp hối, lời bàn về ngõ cụt của chiến tranh, của những chiến thắng đắp trên xác chết, tác giả muốn kết thúc tác phẩm bằng chương cuối, chương 13, với bài Hãy đi mãi. Nhưng con 13 xấu số, bài thơ chỉ được đăng một lần trên báo Văn năm 57, rồi bị loại hẳn, ngay cả trong thời kỳ đổi mới. Điều đó dễ hiểu: đối với một nước, không có giáo dục hoà bình, không ưa sáng tạo, ngược lại, tất cả các loại hình chiến thắng xưa và nay đều được vinh thăng, tôn thờ, thì một nhà thơ đi tìm hoà bình, tìm tự do sáng tạo, phỏng có ích gì? Nhưng ai đã tiếp xúc với bài thơ ấy, thấy lời nó cứ sống mãi, tiếng nó cứ dai dẳng vang lên, như một điệp khúc, như lối thoát duy nhất của con người: Hãy đi mãi!
Khi trái đất còn đeo bom trước ngực
thắt lưng
còn lựu đạn bao xe; -
Khi bạo lực còn khua
môi mõm mốc xì
khẩu đại bác mỏi dừ
vẫn sủa;-
Khi bóng tối
còn đau như máy chém
những lời ca đứt cổ
bị bêu đầu
lũ đao phủ tập trung
hình cụ
mặt trời lên
phải mọc giữa rừng gươm.
(trích Hãy đi mãi in lại trong Trần Dần ghi, trang 177)
Hãy đi mãi đối với Trần Dần, là phải đi qua Việt Bắc, đi trên Việt Bắc, đi khỏi chiến tranh, đi khỏi đói nghèo, dốt nát, vượt qua nhược tiểu, bước trên đàn áp, đi khỏi nhục nhằn, nói lên nỗi lầm than của con người sống không tự do, không sáng tạo:
" Tôi có thể mặc thây
ngàn tiếng chửi tục tằn
trừ tiếng chửi:
- "Sống không sáng tạo "
Khí thơ bất khuất, rất Trần Dần. Bài ca đoạn tuyệt chiến tranh, hồi sinh chân lý cuối cùng: sáng tạo:
Tôi vẫn nâng chiếc đầu lâu nặng nề sáng tạo
như nâng một viễn vọng đài.
Thơ độc âm: Mùa sạch
Trong sự khao khát cái mới, khách thơ thường muốn tìm đến một cái gì triệt để. Tập Mùa sạch của Trần Dần được nhà xuất bản Văn Học in năm 1997 có tính triệt để này. Trần Dần tìm đến thơ độc âm, như một thử nghiệm triệt để.
Độc âm. Vì mỗi bài xoay quanh một âm chính, ví dụ Hành trình trong, với âm trong:
Phố trong
Bộ hành trong
Giờ trong
Tắcxi trong... (trang 7)
Bài Lịch xuân, với âm xuân:
....Nơi ngâm hạt xuân
Nơi tưới màu xuân
Nơi đóng tàn xuân
Nơi bắc cầu xuân
Nơi đúc thép xuân
Nơi rỡ mành xuân... (trang 60)
Bài Lịch con cái, với âm đông:
Ðứa cày ruộng đông
Ðứa leo núi đông
Ðứa mò biển đông
Ðứa làm đường đông... (trang 75)
Hoặc bài Lịch họ hàng, với âm đồng:
Là trai đồng chiêm
Là gái đồng mùa
Là thúc bá đồng lầy
Là anh em đồng mỏ... (trang 76)
Lối cách tân này của Trần Dần dựa trên nhịp điệu của ca dao, đồng dao:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Ca dao, đồng dao thường hay lập lại âm đầu, lấy âm đầu làm âm chính, âm chủ. Trần Dần lập lại âm cuối, hoặc âm giữa, lấy âm phụ, âm khách làm chính. Ông tìm cách lạ hoá và tạo ra một loại đồng dao mới, chức năng không chỉ "tả tình", "tả cảnh" như ca dao đồng dao ngày trước, mà có thể có những chức năng hoàn toàn khác, biến đổi tuỳ theo bài hát. Ví dụ, nếu ta đọc một mạch, liền hơi: Phố trong, bộ hành trong, giờ trong, tắcxi trong... sẽ thấy bài thơ diễn ra như một bức tranh siêu thực, nhiều hình ảnh lướt qua, cắt đứt nhau theo nhịp điệu đồng dao. Nếu đọc một mạch liền hơi: Là trai đồng chiêm, là gái đồng mùa, là thúc bá đồng lầy, là anh em đồng mỏ... chúng ta có một quan hệ trai gái, họ hàng, làng xã. Nếu đọc một mạch: Nơi ngâm hạt xuân, nơi tưới màu xuân, nơi đóng tàn xuân, nơi bắc cầu xuân, nơi đúc thép xuân, nơi rỡ mành xuân... chúng ta thấy hiện ra trước mắt hoạt cảnh sống động của mùa xuân, như xem một cuốn phim mà người cầm caméra đang quét rất nhanh ống kính dõi theo tầm mắt. Trần Dần muốn tìm ra một thứ đồng dao mới, tạo những ấn tượng mới, những hiệu quả mới... Một thứ đồng dao không đứng một chỗ, mà đi.
Tập Mùa sạch là tác phẩm cách tân duy nhất được in ra của Trần Dần, những tìm tòi khác, trong những tập thơ khác, vẫn ở trạng thái nằm, chưa in. Cho nên chúng ta chưa thể biết hết những thử nghiệm thơ của Trần Dần.
Trong thử nghiệm độc âm này, nhịp điệu thường bị gò bó, có những câu trở thành khiên cưỡng, eo hẹp. Nhưng thật ra, không biết Trần Dần có cố ý cách tân thơ, hay là ông chỉ muốn chứng minh một điều: ở tận cùng của gò bó, nhà thơ vẫn làm việc được, vẫn sáng tác được. Và trong "không khí độc âm toàn diện", "ta về ta tắm ao ta", người thơ vẫn có thể tạo ra một bối cảnh khác thường mà âm thanh, ý tưởng và hình ảnh, cùng gặp gỡ trong một ánh sáng mới:
Ao ta...
Liềm chiêm hái sáng
Thuyền chiêm chở sáng
Ngõ chiêm ơi ới sáng
Cầu tre chiêm rửa sáng.
Chị em chiêm gánh sáng
Ao chiêm làu lạu sáng
Con trâu chiêm cày sáng
Cá chiêm đẻ sáng.
Bếp chiêm khua sáng
Lửa chiêm làn lạn sáng
Mưa chiêm hàn hạt sáng
Sương chiêm màng mạc sáng
Vú chiêm sàn sạt sáng
Gàu chiêm tát sáng
Hạt chiêm chín sáng
Làng chiêm gặt sáng
...
Người cấy sáng
Người hái sáng
Người ải sáng
Người ngâm sáng
Người rửa sáng
Người trảy sáng
Người quảy sáng
Người lảy sáng
Người bày sáng
Người lội sáng
Người xới sáng
Người bới sáng
Người tưới sáng
Người lưới sáng
Người vin sáng.
Người vun sáng.
Người trồng sáng.
Người hong sáng.
Người đong sáng.
Người tải sáng.
Người rắc sáng.
Người gặt sáng.
Người giặt sáng....
(trích Ao ta, trang 29, 30, 31)
Sáng dồn đến, sáng ập vào, sáng tấn công mọi mặt, khiến người đọc chưa kịp tảo thanh sáng trước đã bị sáng sau áp đảo: sự đuổi bắt sáng tạo ra một sức hút kỳ lạ, sức lôi cuốn của độc âm, tựa như : một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng, bốn ông sáng sao... khiến người hát, người nghe không thể ngừng mà cứ phải đi, đi mãi... Trong không khí đen tối của hòm chữ bị giam trong mồ, sáng là một độc âm thiên thần, sáng đưa con người đến thế kỷ mới, đến sáng thế kỷ.
Và khi Trần Dần dùng độc âm như một hình ảnh độc vận của đất nước đã được tảo thanh, rửa sạch, trong tất cả các lãnh vực xã hội, chính trị và tư tưởng, chỉ còn lại một mùa duy nhất: mùa sạch, thì tác dụng độc âm trở nên vô cùng mạnh mẽ:
Tôi thích nhất công tác ở Việt Nam mùa
Bò mùa lúc nhúc công trường mùa.
Ga mùa lục xục tàu mùa
Chiều mùa lục bục sấm mùa.
Tỉnh mùa lục tục gặt mùa.
Mạ mùa gieo mùa.
Sao mùa vằng vặc ngoại thành mùa.
Xóm mùa lạc xạc cày mùa.
Mùa Việt Nam trên quả đất mùa.
(trích Trên quả đất mùa, trang 14)
Mùa sạch trở nên đỉnh cao của nước Việt sạch, khi cả cõi bờ đã được quét sạch để đạt tới:
Miền sạch
Thuyền sạch
Bút sạch
Tất cả đều sạch, từ tư tưởng đến bốn mùa, đều sạch. Ở đỉnh sạch. Không còn lại gì.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.