11.00
Thể thơ: Phú
Thời kỳ: Nguyễn
Từ khoá: thói đời (7)

Đăng bởi tôn tiền tử vào 30/09/2023 13:25

Ngán thay thế tục!
Ngán thay thế tục!

Nước chẩy bến mê;
Gió hun lửa dục!

Suối liêm mấy kẻ đầm đìa;
Đường lợi đua nhau chen chúc.

Có trung hậu cũng là trung hậu bạc, nào đoái hoài phường khố rách áo ôm;
Chẳng nhân nghĩa gì hơn nhân nghĩa tiền, phải chiều chuộng kẻ vàng trăm bạc chục.

Lập lờ phải trái, mụ lão xỏ kim;
Lường gạt ăn thua, văn thần đánh mộc.


Khi đắc thế, thời đất nắm nên bụt, nghe hơi khá, xăm xăm chen gót tới: đen ngỡ đàn ruồi;
Lúc sa cơ, thời rồng cũng như giun, xem chiều hèn, xanh xảnh rẽ tay ra: nhạt như nước ốc!

Chẳng biết ăn cây nào rào cây nấy, thấy bở thì đào;
Chẳng biết mất của ta ra của người, cứ mềm thì chọc.

Khó giữa chợ nào ai hỏi, chẳng mua thù, bán dữ cũng thờ ơ;
Giàu trên non lắm kẻ tìm, không ép giấu, nài thương mà xạo xục.

Mềm lưng, uốn gối, tôi tớ đồng tiền;
Mắm miệng, ray tay, thế thần thúng thóc.

Lạ buông thả, bán buôn chẳng quản, quen lèn đau càng giáo giở đấu thưng;
Giàu nể nang, giật mượn không nề, khó kéo đến lại ngặt ngòi lãi gốc.

Cạnh thiệt hơn, xem bẵng gương tàu;
Mặt trơ tráo, nhẵn như bùi dục.


Đến gánh nặng, xôn xao chào hỏi, miệng thơn thớt ngọt như mía nướng, đuổi gà, khua cá tưng bừng;
Lại tay không, nhăn nhó ủ ê, mặt sì sị nặng ngỡ đá đeo, chửi chó, mắng mèo eo óc!

So tầy chẳng sợ tiếng bon chen;
Thứa lựa lại ghê gan hiểm hóc!

Miệng ngọt nhạt: Của anh như của chú, thương gì thương, thương chẳng có dơi;
Tiếng đãi bôi: Con chị ẵm con em, trọng gì trọng, trọng chẳng có cóc!

Đá đưa đầu lưỡi, tinh những trương hoàng;
Sấp ngửa bàn tay, rặt mầu phản phúc.

Mới mát mặt, ngỡ khỏi điều trần luỵ, vểnh râu lên, rằng có gì, dí cò;
Đã dầy lưng, song sợ kẻ tần phiền, bưng tai lại, rằng không lắc, lăng cốc!

Cũng khoe khoang kẻ trượng phu tùng;
Cũng khỏng khảnh người quân tử trúc.

Gả bán so từng gốc rạ, kém lưng đành cắn móng tay;
Bạn bè đọ những lá gan, cưa cạnh chẳng lìa tơ tóc.

Nào từng biết phải, biết chăng;
Muốn những vừa trao, vừa xúc.

Thấy người sang, muốn bắt quàng làm họ: thuyền đua bánh lái cũng đua;
Làm kẻ khó, muốn đánh đọ với giàu: húng mọc tía tô cũng mọc!

Chẳng nói nên vì nỗi tay không;
Chẳng hay đến bởi chưng đầu trọc.

Khó đành phận khó, bèo đã biết thân bèo, bèo đâu dám chơi trèo;
Ai dễ thương ai, ốc chửa nổi mình ốc, ốc sao mang được cọc?

Chốn nghĩa nhân nhạt nhẽo hững hờ;
Nơi tài lợi mặn mà săn sóc.

Phường cuội đất, bán ruộng chung thiên hạ, chỉ tay hổ, trỏ tay long;
Ả bợm vườn, buôn tiền xấu thế gian, hợm mình vàng, khoe mình ngọc.

Vụng kiếm ăn thì chê xác như vờ;
Khéo lừa lận ấy khen khôn có nọc.

Đàn nha nhặng, đứng múa thanh gươm lưỡi, đem lại đầy mật ong, bột sắn, cua bể, tôm he;
Lũ thầy cò, ngồi khoa ngọn giáo lông, đưa vào những bát bít, mâm thau, khay trà, ống súc.

Trong luồn lọt năm dạ mười vâng;
Ngoài uốn éo ba lừa bảy lọc.

Kẻ đầu Phật, rắp hòng buôn cả bụt, tu gì mà tu, tu mù;
Gã tùng sư, toan những lật cả thầy, học gì mà học, học chọc!

Ấy thế mà ngấp nghé đứng toà sen;
Ấy thế mà đua chen lăm áo vóc.

Cũng có kẻ mượn quỷ thần kiếm lễ, khua mõ tay, đuổi bà cô, ông mãnh đùng đùng;
Cũng có loài mượn nàng dí lấy tiền, che quạt miệng, nói kẻ khuất, người còn xong xóc.

Lời “vô sư bất trách” biếng tai nghe;
Chữ “vô vật bất linh” mau miệng đọc.

Bói võ vẽ và câu truyền khẩu, cũng mang hòm kiếm vặt, tuy chửa thông quẻ Triều quẻ Cộng cũng xem;
Thuốc ngù ngờ mấy vị nhập tâm, cũng xách đẫy chạy rông, dẫu chửa rõ con Bễ con Hiền cũng bốc.

Chước sinh nhai như thế có ra gì;
Nghề học thuật nghĩ mình đà chín nục!

Lại còn kẻ khéo tay vơ của: hoa tai xôi, thanh quế chắp, sơn dược củ năn dồi;
Lại còn loài bưng mắt lấy tiền: rồi mỏ khéo, đấu linh gian, sa quay tiền mẫu đúc.

Lấy những điều đại khái mà suy;
Giở đến sự chúng con còn ngốc.

Mừng nay gặp trời xuân hớn hở, thái hoà chung hoá nhật quang thiên;
Vâng trên cầm mối cả ngăn ngừa, thanh giáo khắp thâm sơn cùng cốc.

Lo sửa mình theo nguồn sạch, dòng trong;
Mừng tiến đức thể sấm vang, gió giục.

Nhớ xưa:
Qua buổi loạn ly;
Trải đường thân túc.

Cầm đuốc soi cho tỏ, nết thực thà hơn nết văn hoa;
Ăn mắm ngắm về sau, đường ngay thẳng hơn đường gai góc.

Giàu đừng bắc bậc khoe khoang;
Khó phải gia công tủi nhục.

Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, tập khôn mới nên khôn;
Điều lành thời nhớ, điều dở thì quên, chửa học cũng như học.

Trâu chăn, bò giắt, vui nghiệp nông gia;
Ngựa cưỡi, dù che, nức danh lịnh tộc.

Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, biết bao nhiêu ngựa đón, xe đưa;
Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng, sao chẳng giữ tiền rêu, thóc mốc?

Anh hùng hẳn có lúc ra tay;
Quân tử hãy bền gan gấp khúc.

Kẻ có nhân, mười phân chẳng khó, cớ chi mà buộc cổ mèo, treo cổ chó, lẩn thẩn lần thần;
Người biết lo, bằng kho hay làm, cớ chi mà tham con diếc, tiếc con rô, cù rù cúc rúc.

Trời cho, vốn đã dành phần;
Vận đến, khi nên mấy chốc.

Chẳng thấy mua lừa, bán đảo, bốc tay sốt, đổi tay nguội, sung sướng bao ngày;
Chẳng thấy người ăn sổi, ở thì, vào cửa mạch, ra cửa tà, khá hèn thoảng lúc.

Thương người ấy là thương mình;
Làm giàu sao bằng làm phúc.

Chú khi nay, mày khi khác, gọi là cú có, vọ mừng;
Ăn miếng chả, giả miếng bùi, chớ nghĩ cốc mò, cò rúc.

Phật thường độ hữu duyên;
Thiên bất sinh vô lộc.


Giàu vì bạn, sang vì vợ, nhất kiến như cựu thức, dầy mỏng sân siu;
Đông có mây, tây có sao, cửu đại hơn ngoại nhân, rách lành đùm bọc.

Trâu buộc ghét trâu ăn sao được, ghét thì xuống sông mà kỳ;
Cá lớn nuốt cá bé được chăng, nuốt đến ngã ba thì hóc.

Tốt lỏi sao bằng xấu đều;
Ngốc đàn còn hơn khôn độc.

Ruột bỏ ra, da bọc lấy, dòi tự trong xương;
Thượng bất chính, hạ tắc loàn, dột từ trên nóc.

Miễn được áo ba manh, cơm ba bát, mặc dầu thủng thỉnh, thung thăng;
Nào ai giàu ba họ, khó ba đời, lọ phải tròi mòi, moi móc.

Tham nhiều nên phải rình mò;
Tiêu ít cớ chi khó nhọc.

Chẳng biết gió chiều nào che chiều nấy, còn tại hạ phải lạc thiên an mệnh, chớ ngất ngưởng tịch cư ninh thể mà vụ danh;
Đã hay phấn dồi mặt đâu dễ dồi chân, may đắc thời nên trí chúa trạch dân, đừng ngoa ngoắt giai cảnh hứng tình mà tiểu cục.

Tôi nay:
Tất hộ lơ thơ;
Hạnh lâm ngang dọc.

Tỉnh lòng trần mấy quyển thanh nang;
Say vị đạo một bầu hoàng cúc.

Hú hí vỗ tay ôm cháu, véo má hôn ngang;
Nghêu ngao nằm võng dạy con, vắt chân thẳng dọc.


Thong thả rộng xem đèn sách, gẫm cổ nhân đắc thất để mà suy;
Nôm na gọi chép mấy lời, khuyên tử đệ ngôn hành nên kiểm thúc.

Há rằng ở đời:
Chê lẩn sự đời;
Lấy làm tự túc.


Sống giữa xã hội có nhiều biến động, quan hệ giữa con người với con người ngày càng sa sút, thế lực của đồng tiền ngự trị mọi nơi. Tác giả đau xót trước cảnh đời đen bạc, coi đó là căn bệnh nguy hiểm cần phải chữa chạy kịp thời, do vậy ông sáng tác thơ văn, ngụ ý răn dạy người đời. Bài phú Nôm độc vận dài 100 câu đã phơi bày sâu sắc cảnh đời đen bạc thời bấy giờ. Bài phú tương truyền được làm năm Minh Mạng thứ 14 (1833) và truyền tụng rất rộng, hiện nay ở thư viện Hán Nôm còn hơn 10 bản chép tay.

[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]