六月霖雨粮絕,又見上諭不許進城偶作

纔抵藍橋早作霖,
沮洳塲裏度光陰。
近郊匪洞幽還邃,
旅舍如僧寂又岑。
仙不擎漿難潤喙,
佛非懷餅易空心。
玉京何必崎嶇上,
但望南車指有針。

 

Lục nguyệt lâm vũ lương tuyệt, hựu kiến thượng dụ bất hứa tiến thành ngẫu tác

Tài để Lam Kiều tảo tác lâm,
Tự như trường lý độ quang âm.
Cận giao phỉ động u hoàn thuý,
Lữ xá như tăng tịch hựu sầm.
Tiên bất kình tương nan nhuận uế,
Phật phi hoài bính dị không tâm.
Ngọc kinh hà tất kỳ khu thượng,
Đãn vọng nam xa chỉ hữu châm.

 

Dịch nghĩa

Vừa đến Lam Kiều thì trời đổ mưa
Vì lầy lội nên phải ở lại trong nhà cho qua thì giờ
Gần bên không có động ẩn bậc cao thâm
Nơi ở trọ thì như nhà sư vừa vắng lặng vừa cao cả
Tiên như không có rượu cũng khó mà trơn miệng
Phật bụng không có bánh thì dễ trống lòng
Đường về kinh đô sao mà gian nan thế
Chỉ mong xe có kim chỉ về hướng nam


Dịch nghĩa của Nguyễn Duy Chính.

Bài thơ này làm năm 1800 khi Lê Quýnh đã được ân xá ra khỏi ngục, nhưng vẫn bị quản thúc chỉ được sinh hoạt ở khu vực quanh ngoại ô Bắc Kinh.

[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]