宋溪生祠詩

麟閣雲臺跡已寥,
生祠一簇倚丹霄。
斯文棟宇長相近,
旺氣山河正未消。
喬木成陰饒韻事,
甘棠見愛播風謠。
是非自古曾多口,
不作楊生費解嘲。

 

Tống Khê sinh từ thi

Lân các vân đài tích dĩ liêu,
Sinh từ nhất thốc ỷ đan tiêu.
Tư văn đống vũ trường tương cận,
Vượng khí sơn hà chính vị tiêu.
Kiều mộc thành âm nhiêu vận sự,
Cam đường kiến ái bá phong dao.
Thị phi tự cổ tằng đa khẩu,
Bất tác dương sinh phí giải trào.

 

Dịch nghĩa

Lầu son gác tía, dấu xưa đã trở nên vắng vẻ,
Vài ngôi sinh từ mọc lên giữa không trung.
Đạo chính thống với trụ cột nước nhà vẫn cùng nhau sát cánh,
Vượng khí non sông vẫn còn chưa thể tiêu tan.
Như cây cao toả bóng chở che vận nước,
Được mến yêu như Thiệu Công nhà Chu, được khắp nơi ca tụng.
Điều phải trái từ xưa từng nhiều lời bàn tán,
Nếu không biểu dương lúc sống, thì lại phí công giải thích những điều cười nhạo của đời sau.


Lạc khoản: “Quang lộc tự khanh, Sơn Nông Dương Danh Lập bái” 光祿寺卿山農楊名立拜 (Dương Danh Lập, chức Quang lộc tự khanh người Sơn Nông bái đề).

Tống Khê tức Nguyễn Hữu Độ 阮有度 (1824-1888) tự Hy Bùi 希裴, hiệu Tống Khê 宋溪, tước Vĩnh Lại quận công, người Gia Miêu, huyện Tống Sơn, nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 20 (1867), làm Kinh lược Bắc Kỳ. Ông là một trung thần của nhà Nguyễn và tích cực cộng sự với Pháp. Ông nổi tiếng trong lịch sử với sự kiện phá huỷ chùa Báo Thiên để xây Nhà thờ lớn Hà Nội, và việc dựng sinh từ thờ chính mình khi còn sống. Sinh từ nằm ở phố Sinh Từ cũ, nay là phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa, Hà Nội. Nhiều người thời đó đã làm thơ vịnh sinh từ này, gồm cả ca ngợi lẫn chế giễu.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]