狀元祠

剛忠抗節欲橫秋,
危行危言遘外尤。
曾自平生神貢夢,
狀元食報在人頭。

 

Trạng Nguyên từ

Cương trung kháng tiết dục hoành thu,
Nguy hạnh nguy ngôn cấu ngoại vưu.
Tằng tự bình sinh thần cống mộng,
Trạng nguyên thực báo tại nhân đầu.

 

Dịch nghĩa

Giữ tiết cương trung không khuất phục, chí hướng tung hoành,
Đức cao chí lớn, gặp bao thù oán.
Khi còn sống, từng được thần linh báo mộng,
Sẽ đỗ Trạng nguyên thực rõ ràng.


Nguyên chú: Đền Trạng Nguyên ở ngoài cửa Chính Đông, là từ đường thờ trạng nguyên Nguyễn Quốc Công đời Lê tên huý là Trinh ở thôn Xuân Yên, huyện Thọ Xương. Ông vốn là người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, đỗ trạng nguyên đời vua Lê Thần Tông, năm Vĩnh Thọ 2 (1659), làm quan đến chức Tham tụng Thị lang; là người cương trực thẳng thắn. Khi chúa Trịnh sắp lấn át vua Lê, sai dẫn ông đến ngầm thăm dò. Ông đáp: “Làm như vậy thiên hạ chẳng phục.” Chúa lại hỏi: “Thiên hạ muốn ai?” Ông đáp: “Thiên hạ tâm địa trong sạch, không thể hai lòng. Đó là biết lòng thiên hạ vậy!” Chúa Trịnh lặng thinh, không vui. Năm đó, Cấm binh nổi loạn, vây quanh cửa phủ, ông vẫn điềm nhiên phụng mệnh, đọc tuyên dụ của nhà vua. Nhưng loạn binh vẫn giết hại ông. Sau này, chúa cho bắt những kẻ cầm đầu đem ra xét xử, rồi hết lòng thờ cúng ông ở từ đường, ban tặng chức Thượng thư, tước Trì Quận công, Tiết Nghĩa công thần, ban thuỵ là Cương Trung. Ngày xưa, lúc ông sắp đi thi đến cầu thần ở quán Trấn Vũ, nửa đêm lúc gà chưa gáy, bỗng mộng thấy mình trèo lên gác giẫm lên giầy của thần, thần báo rằng: trạng nguyên còn thiếu, nhà người tâm đầu ý hợp, khoa thi này sẽ được đỗ trạng nguyên. Mộng báo như vậy, sau này quả là linh nghiệm.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]