同仁洲

傘嶺授戈悲落日,
龍城回首逐秋雲。
貞魂玉珥孤洲上,
作怒濤聲盡夜閒。

 

Đồng Nhân châu

Tản Lĩnh thụ qua bi lạc nhật,
Long thành hồi thủ trục thu vân.
Trinh hồn ngọc nhĩ cô châu thượng,
Tác nộ đào thanh tận dạ nhàn.

 

Dịch nghĩa

Trao giáo mác trên núi Tản buồn nỗi mặt trời lặn,
Quay đầu nhìn về Thăng Long ruổi theo đám mây thu.
Bên sông Nhĩ Hà, hồn trung trinh trên bãi cát cô đơn,
Khiến tiếng sóng cuồng giận suốt đêm thâu.


Nguyên chú: Bãi Đồng Nhân ở ngoài thành, cách cửa chính đông ba dặm ở xã Đồng Nhân, huyện Thanh Trì, bên bờ nam sông Nhĩ Hà là nơi Nguyễn Đình Gián, tiến sĩ đời Lê, tuẫn tiết. Ông là người xã Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hoá, đỗ tiến sĩ đời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769), làm quan chức Thượng thư bộ Hình. Khi nhà Lê chạy nạn đến xứ Sơn Tây giữa núi Tản Viên và Tam Đảo, ông chiêu binh để đánh giặc, việc chưa thành đã bị bắt. Giặc đem ông hành hình trên bãi Đồng Nhân.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]