Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Thư đề Miễn Trai (Ngô Thì Nhậm): Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Học hỏi không ngoài cố gắng luôn,
Một bằng trăm, trăm phải bằng muôn.
Núi cao thêm đất bồi lên nữa,
Ngựa khoẻ cần roi vụt thúc dồn.
Ruộng sách quanh năm không hạn lụt,
Con người thấm đạo mới tinh khôn.
Xưa nay khanh tướng đâu dòng giống,
Nghiệp cả công cao ở gối tròn.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Tuyết nguyệt nghi phú (Ngô Thì Nhậm): Bản dịch của Trần Duy Vôn

Lờ mờ một màu, tôi chưa hiểu chừ trời đã sáng hay đêm còn lâu!
Tôi muốn xem vòm trời chừ, thì sao Kim cùng sao Mai không thấy đâu.
Trỏ núi trước mà nghển trông chừ, cỏ cây như chiếc cồn quanh co mà trắng phau.
Há đêm dài chưa canh ba chừ, sao còn nghe tiếng chim văng vẳng gắt gao?
Hay là trời vừa sáng chừ, sao bóng người còn vắng ngắt chưa qua cầu?
Tôi có nghi ngờ là tuyết trắng hay trăng chừ, gọi mà hỏi chàng dư phu.
Thì hắn líu lo không rõ chừ, tay trỏ miệng mà nói những câu…
Vừa đi, lòng tôi tự nghĩ chừ, trời đất trước khi còn hỗn độn một bầu,
Ở dưới gì là sông núi chừ, ở trên gì là trăng sao du?
Ở giữa lấy dáng gì làm vật chừ, lấy hình gì làm người du?
Lại là sao có trên, dưới, giữa chừ, khiến cho các sự vật chia rẽ nhau.
Lí đó vẫn lơ mơ chừ, khó đó vẫn mịt mù;
Danh lợi gì cùng theo đuổi chừ, đâu là thân mà đâu là sơ âu?
Đưa đón gì cùng phiền luỵ chừ, đâu là chân mà đâu là nguỵ âu?
Từ khi có thuyền có xe giao thông chừ, kia mới là Huân mà đây là Miêu.
Đã có giáo mác cùng theo rõi chừ, rồi mà ngọc lụa tiếp theo sau.
Mới có con đường xa xa muôn dặm chừ, trải ba lần dịch tiếng mà rồi dong duổi vó câu.
Dấu chân người đã qua chừ, đạp sương tan mà giầy bụi sạch lầu.
Lại còn nghi ngờ gì trăng tuyết chừ, bàn cãi sáng rồi hay đêm còn sâu.
Thân này mong sao mạnh luôn chừ, học xe ông Cừ bon bon không chậm không mau.
Hoạ may việc giao hảo được tốt chừ, để đền đáp trời cao.
Phú bài trở về Liên xã chừ, mong như vị thiên dân ở bãi Hữu Sần tự do tiêu dao!


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Tuyết nguyệt nghi phú (Ngô Thì Nhậm): Bản dịch của Ngô Linh Ngọc

Lẫn lộn một màu, ta chẳng nhận ra chừ, sớm tối hay đâu!
Ta muốn nhìn xem bầu không chừ, sao Hôm, sao Mai đã lặn rồi, từ lâu!
Trỏ rặng núi trước mặt mà trông lên chừ, cây cỏ thành gò, tròn vạnh mà trắng phau.
Há lẽ đêm dài chưa tắt chừ, sao phảng phất tiếng chim kêu?
Hay bình minh đã hửng chừ, sao không bóng người in trên cầu?
Ta nghi ngờ chẳng rõ tuyết hay trăng chừ, bèn gọi hỏi người đánh xe;
Nhưng tiếng nói lạ tai khó hiểu chừ, tay trỏ miệng mà líu lô.
Ta vừa đi, vừa tự hiểu lấy chừ, buổi hỗn mang ban đầu,
Ở dưới, ai tạc lên núi sông chừ, ở trên ai bày ra trăng sao?
Ở giữa, muôn vật đúc nên theo trạng gì chừ, nặn ra người theo hình nào?
Lại vì sao chia giữa, dưới, trên chừ, khiến họp lại thành từng loài khác nhau?
Cái lẽ đó thật mập mờ chừ, cái khí ấy hỗn độn sao!
Sao lợi danh cứ mãi đua ganh chừ, thân sơ nào biết đâu!
Sao đón đưa làm phiền phức nhau chừ, thật giả biết người nao?
Từ thuở thuyền, xe sinh ra chừ, mới phân biệt đó nơi Huân, đây giống Miêu;
Đã gươm đao giết hại lẫn nhau chừ, lại ngọc, lụa để hoà giao!
Để có con đường muôn dặm sứ Hoa chừ, dịch tiếng nói ba lần, nhoài vó câu!
Dấu chân người đến nơi đâu chừ, đều dẫm lên sương sớm, mà đạp lên bụi đào;
Vậy nghi trăng, ngờ tuyết mà chi chừ, sá kể gì ngày sáng với đêm thâu!
Chỉ mong thân này mãi được khang cường chừ, xe họ Cừ học ruổi mau.
Việc ứng đối may chẳng sai lầm chừ, muôn một đáp ơn sâu;
Rồi vịnh bài phú “Xóm hoa sen”, làm người dân lành quay về chừ, cày nội Sằn vui biết bao.

Ảnh đại diện

Vi chi phú (Ngô Thì Nhậm): Bản dịch của Trần Duy Vôn

Khi rỗi, ở không, biết làm gì, khi đi không biết đâu mà đi,
Làm việc không nên làm chừ, lòng ta sinh hồ nghi!
Đi lúc không nên đi chừ, bước chân ta chậm trì trì!
Lòng ta hồ nghi chừ, việc đó ta làm chi!
Chân ta bước chậm trì trì chừ, lúc đó ta không đi,
Ôi! Làm việc gì là nên làm?
Ta nói câu văn chừ, ta ngâm câu thi,
Vâng lời vua truyền chừ, diễn từ sợi luân sợi ti
Ôi! Đi đâu mà nên đi?
Buổi sớm ta vào chầu vua chừ, buổi chiều ta về
Siêng năng chức vụ chừ, răn những điều chạy, đi.

Người thấy chăng:
Mưa xuống phải thời chừ, ruộng nương màu mỡ,
Mùa xuân một trâu cày chừ, muôn khoảnh đầy đủ.
Gió mát thổi chừ, mặt sông mặt biển phẳng bằng,
Giương lá buồm chừ, con thuyền nhỏ chạy băng băng.
Tre gỗ đầy đủ chừ, nhà vua sẽ kiến thiết,
Huy động rìu búa chừ, làm thành cột rường cung khuyết.
Làm việc nên làm chừ: làm ruộng, làm thợ, làm nghề buôn,
Làm nho sĩ như ta chừ, chẳng lo lường.

Lại chẳng thấy:
Sấm mưa ập tới, rồng vươn mình,
Thần núi sợ chừ, thần bể cũng kinh.
Mặt trời buổi sớm mọc chừ, chim phượng hoàng hót,
Nghe nhạc anh nhạc thiều vui chừ, cất cánh vung chân nhảy nhót.
Cỏ chi mọc chừ, muôn kỳ lân tới chơi.
Lang sói phải thất thế chừ, hổ báo cũng mất oai.
Đi nên đi chừ, như rồng phượng và kỳ lân.
Lẽ nào người ta không cho là quý báu vô ngần.
Sợ đường đi chừ, rất là nguy hiểm,
Lời nói phải dè dặt chừ, nết na phải kiểm điểm.
Khi rỗi, ở không, biết làm việc gì chừ, như loài sâu nhỏ kia chừ, cũng đáng chán đáng khiếp.
Buồn cho tình của con người chừ, rất là hiểm sâu,
Rộng quá nên rút hẹp lại chừ, buông thả thì nên thu.
Ai không biết đi đâu chừ, sao chẳng như chim sẻ kia, có quá nhiều môi cầu.

Ta trấn tĩnh tấm lòng của ta,
Ta ở chốn sơ sài.
Vì việc làm thuận theo mệnh trời chừ, dẫu dọc ngang thiên hạ cũng không lấy gì làm vui.

Ta giữ gìn chiếc thân của ta,
Ta đi con đường khang trang.
Bởi ta đi thích hợp với đạo lý chừ, dẫu dày đạp trên đuôi hổ chừ, không gì làm đau thương.

Ta xem tượng quẻ Kiền,
Sau trước rất sáng tỏ,
Chẳng gì là không làm,
Mây thì bay, mà mưa thì rỏ.
Kiền là đạo cha chừ, ta làm chốn dựa đó,
Như mây theo rồng chừ, mà gió thì theo hổ.

Ta xem tượng quẻ Khôn,
(Như ngựa cái) đi trên đất mãi mãi,
Chẳng đâu là không đi,
Phương Tây nam là phương âm (đi thì có lợi).
Khôn là đạo mẹ chừ, ta làm chốn trông cậy.
Dày đạp trên sương phải răn sợ chừ, để phòng khi băng giá sẽ đến vậy.

Ta xem tượng quẻ Ly,
Vì trong trống rỗng, nên mới bốc cháy tràn.
Một ngọn lửa nhỏ, cũng đốt được rừng,
Khi lửa đã tắt rồi, thì tro tàn tiêu tan!
Sao bằng mặt trời đi mạnh chừ, tiễn đưa đến phương tây, mà đón rước từ phương đông,
Bởi khi ẩn khi hiện có điều độ chừ, trải hai tám là mười sáu ngày mà độ số không sai vòng.

Ta xem tượng quẻ Khảm!
Vì trong đông đặc nên hùng cường thay.
Một giọt nước nhỏ cũng làm vỡ đê,
Khi nước đã bị khô, thì bụi cát lầm bay!
Sao bằng vừng thái âm là mặt trăng thường vững bền chừ, đầu tháng nảy nở, mà cuối tháng tiêu dần đi,
Bởi lúc đầy lúc vơi có điều độ chừ, trải tam ngũ là mười lăm đêm, mà đường đi không xa lìa.

Ta xem tượng Chấn, Tốn là quẻ Hằng,
Sấm với gió cùng quyến luyến.
Làm không sai nguyên tắc,
Đức sẵn có, chẳng chút hổ thẹn.
Phải răn cấm “đừng ích thêm nó, lời nói thiên lệch” chừ, vì lòng không thủ thường mà phải chịu điều xấu xa đưa đến.

Ta xem Đoái, Cấn (là quẻ Hàm),
Núi và đầm cùng thông khí.
Có đi mà không thay đổi phương hướng,
Trong chốn cảm ứng, có điều hoan hỉ.
Ba người cùng đi, mà tổn (bớt) một người chừ, vì ngôi không chính đáng mà phải chịu chuốc lấy tai lệ.

Vì các vật nhỏ không gì không ở trong,
Duy nhất sâu thẳng cho nên thường lưu thông
Sự ham muốn của người không bờ bến,
Mà tạo hoá thì vô cùng.
Làm và đi là do ở tâm,
Mà sự giữ gìn thì do ở chí.
Kẻ tiểu nhân thì vị người,
Bậc quân tử thì vị kỷ.
Ví ta ẩn thân ở trong đường làm quan chừ, phải răn đe gặp dòng nước chảy mạnh kia, phải rút lui cho nhanh.
Không phải leo sườn núi mà kiếm lợi chừ, chỉ sợ va chạm vào đá núi mà thuyền bị tan tành.
Nhưng cần điềm tĩnh mà tự mình giữ yên thân mình chừ, mong sao loanh quanh thù ứng ở trong lúc tuổi già.
Học theo thầy Khang Tiết kiểm điểm mọi sự trái ngược chừ, tạm làm bài phú để gửi gắm chút tình của ta…
Trở về bảo rõ cho con em ta chừ, những lời nói của ta chớ có nên đổi cùng thay.
Biết rõ sự đi đi lại lại thì nhàn hạ, tìm tới cung trăng thì tới sát chân trời.
Tiếp theo đây lại làm bài thơ hò khoan rằng:
Khoan hỡi khoan!
Lên thác dễ dàng, xuống thác gian nan.
Lặng rót giữa thuyền ba chén rượu,
Cuộc tiến lui ta phát đạt quan.
Khoan hò khoan!
Xuống thác thì sâu, lên thác gian nan.
Giữa thuyền đem khúc Thương Lang hát,
Đã tĩnh rồi, sau mới có an.

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: