Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 42

VÌ SAO NHÀ TRẦN PHẢI HỎI Ý KIẾN NHÂN DÂN
TRƯỚC KHI ĐÁNH NGUYÊN?


Càng gần đến ngày quân Nguyên tiến sang, không khí chuẩn bị kháng chiến càng tích cực. Để khích lệ lòng quân, Trần Hưng Đạo soạn Hịch Tướng Sĩ cho mọi người cùng đọc. Binh sĩ nghe lời hịch hết sức cảm khái, rủ nhau xăm lên cánh tay hai chữ Sát Thát để bày tỏ ý chí quyết chiến. Ông còn soạn Binh Thư Yếu Lược cho các tướng lĩnh học tập. Tháng 9.1284, Trần Hưng Đạo thừa lệnh vua Trần Nhân Tông tổ chức một cuộc tổng duyệt binh ở Đông Bộ Đầu, các quân vương hầu đều kéo đến tham dự rồi chia nhau đóng giữ các nơi xung yếu. Cho cuối năm 1284, ngay trước khi quân Nguyên tiến sang, những ngả đường quan trọng ở các tuyến biên giới đều có trọng binh trấn giữ.

Tại các vùng tây bắc, quân của các tù trưởng đã chuẩn bị chiến đấu. Thế lực họ Hà ở châu Quy Hoá trước đây đã có nhiều chiến công trong cuộc chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, nay lại tiếp tục sản sinh ra những vị anh hùng mới. Hà Đặc bấy giờ là tù trưởng ở châu Quy Hoá, có trong tay hàng ngàn quân người Tày, sẽ là lực lượng đầu tiên đương đầu với quân Nguyên ở Vân Nam. Tù trưởng Trịnh Giác Mật ở châu Đà Giang cũng là một lực lượng đáng kể. Trịnh Giác Mật đã từng khởi binh chống lại triều đình năm 1280, được Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chiêu dụ, Mật lại chịu phục tùng và sát cánh với triều đình Đại Việt.

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đóng ở lộ Tuyên Quang, giữ trại Thu Vật phòng quân Nguyên ở Vân Nam theo đường Quy Hoá đánh vào trung châu. Trần Nhật Duật là người tài năng kiệt xuất, tính cách nhu hoà, tinh thông ngôn ngữ và phong tục của nhiều tộc người nên rất được lòng các sắc dân thiểu số. Ông là cầu nối quan trọng giữ các lực lượng miền núi tây bắc và miền xuôi phía đông. Trong quân của Trần Nhật Duật có nhiều sắc dân cả trong và ngoài nước. Trong đó có nhiều người tài tuấn. Lựa chọn Trần Nhật Duật cho tuyến phòng thủ mặt tây bắc cho thấy cách dùng người rất hay của Trần Hưng Đạo và vua Trần.

Phần đông quân chủ lực Đại Việt dồn lên phía Lạng Châu để đề phòng quân Nguyên từ Ung Châu theo đường lớn đánh sang. Phạm Ngũ Lão cùng nhiều tướng khác đảm nhận tuyến biên giới đến ải Chi Lăng, bao gồm một loạt cửa ải Khâu Ôn, Khâu Cấp, Khả Li... Quân của Phạm Ngũ Lão bố trí trận địa dựa vào các địa hình hiểm trở, có vai trò cố gắng tiêu hao lực lượng địch càng nhiều càng tốt khi chúng vừa phạm vào biên giới. Trần Hưng Đạo đóng đại doanh ở ải Nội Bàng. Xung quanh Nội Bàng là các cụm cứ điểm vệ tinh để ứng cứu nhau và liệu đường tiến thoái. Quản quân Nguyễn Nộn được lệnh đóng giữ châu Thất Nguyên. Hoài Thượng Hầu Trần Lộng đóng giữ vùng Tam Đái… Thuỷ quân ở Vạn Kiếp, Thăng Long đã bố trí sẵn để làm hậu viện cho các cụm phòng thủ phía bắc. Tại Thăng Long, vua Trần Nhân Tông tự mình cũng nắm giữ một lực lượng thuỷ quân mạnh để tiện ứng biến.

Thế trận phòng ngự do Hưng Đạo Vương sắp đặt là một thế trận phòng ngự đa tuyến, đa điểm, không dồn quân vào một chỗ mà bố trí nhiều nơi để linh hoạt đánh và rút cũng như cơ động hỗ trợ cho nhau. Trong thế trận này, sự cơ động của thuyền bè đóng vai trò rất quan trọng mà ta sẽ thấy sau. Trần Quốc Tuấn còn sai các thân vương tích cực đi mộ binh các xứ để làm lực lượng dự bị. Cùng với việc bố trí các lực lượng quân sự, thì các kho tàng hậu cần cũng được chuẩn bị sẵn ở nhiều nơi để đề phòng quan quân sẽ dùng tới trong các cuộc di tản.

Mặc dù việc binh bị đã chuẩn bị rất khẩn trương, vua Trần Nhân Tông vẫn mong muốn níu kéo hoà bình. Trong năm 1284, lần lượt 3 sứ đoàn sang Nguyên xin hoãn binh đều không mang lại kết quả. Thoát Hoan vừa hành quân xuống miền nam nước Nguyên để tiến sang Đại Việt, vừa sai sứ đòi vua Trần phải chuẩn bị lương thực, và phải lên cửa quan đón quân Nguyên vào nước để “đi đánh Chiêm Thành”. Vua Trần Nhân Tông bèn trả lời thư: “Từ nước tôi đến Chiêm Thành, đường thuỷ đường bộ đều không tiện”.

Để dò biết lòng dân, đầu năm 1285 (tháng Chạp năm Giáp Thân 1284 Âm lịch) Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mời các bô lão trong nước đến dự hội nghị tại điện Diên Hồng. Thượng hoàng ban yến và ân cần hỏi ý kiến của các bô lão nên đánh hay hoà trước thế giặc mạnh. Trong hội nghị ấy, các bô lão, những người đại diện cho lòng dân cả nước đã đồng thanh hô “Đánh!”. Muôn người một tiếng, lời như một miệng phát ra. Đó cũng là hiệu lệnh quyết chiến cho toàn dân tộc. Sử gia các đời đánh giá rất cao hội nghị Diên Hồng vì đó là một động thái chính trị rất sáng tạo và đột phá trong bối cảnh lịch sử thời Trung đại. Ngày nay, chúng ta gọi đó là tinh thần dân chủ.

Trần Thánh Tông thông qua hội nghị không chỉ dò biết được ý nguyện của nhân dân, mà hơn thế nữa là cho nhân dân biết được ý nguyện của họ đã được các nhà cai trị tôn trọng và lắng nghe. Sức ảnh hưởng của hội nghị này rất lớn, giúp cho dân chúng một lòng quyết chiến với quân đội triều đình. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã nhận xét: “Giặc Hồ vào cướp nước là nạn lớn nhất của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn há lại không có kế sách gì chống giặc mà phải đợi đến ban yến hỏi kế ở các phụ lão hay sao? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ của dân chúng, để dân chúng nghe theo lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay vậy.”

Bấy giờ quân của Thoát Hoan đã tiến đến Ung Châu, quân Nguyên từ Vân Nam do Nạp Tốc Lạp Đinh (Naxirut Din) cũng đang sẵn sàng vượt biên giới. Tình thế vô cùng khẩn trương. Nhân dân trong nước ngoài việc cung cấp nhân lực, vật lực cho quân đội triều đình thì những người ở các làng xã cũng đã tự mình tổ chức cất giấu lương thực, lập các đội dân binh, các cụm chiến đấu tự vệ ở địa phương. Hầu hết dân chúng răm rắp làm theo mệnh lệnh triều đình: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh. Nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng!”.

Cuối tháng 1.1285, quân Nguyên do Thoát Hoan và A Lý Hải Nha chỉ huy đã kéo đến biên giới nước ta, giáp với Lộc Châu (Lộc Bình, Lạng Sơn). Quân Đại Việt đã dàn sẵn trận địa để đợi giờ quyết chiến. Vua Trần sai người mang thư đến cho Thoát Hoan để nuôi cái chí kiêu ngạo của chúng: " Không thể tận mắt trông thấy cái hào quang của ngài, nhưng trong lòng lấy làm hoan hỉ. Nhân vì ngày trước có nhận được thánh chiếu nói rằng: “Sắc riêng cho quân ta không phạm vào nước ngươi”, mà nay thì thấy ở Ung Châu doanh trạm cầu đường nối nhau san sát, trong lòng thật lấy làm kinh sợ, mong hãy xét rõ lòng trung thành, nếu có gì thiếu sót xin lượng thứ cho”. ( theo Nguyên sử)

Thoát Hoan đưa thư hồi đáp với lời lẽ gian trá: “Sở dĩ hưng binh là để phạt Chiêm Thành, chứ không phải An Nam” (theo Nguyên sử)

Thư từ qua lại như thế nhưng không ảnh hưởng gì tới tiến độ hành quân của quân Nguyên. Ngày 27.1.1285, quân Nguyên chia làm hai đạo tiên phong mà tiến. Cánh phía tây do Bột Đa Cáp Đáp Nhĩ (Bolquadar), A Thâm chỉ huy tiến vào Khâu Ôn (Ôn Châu, Lạng Sơn ngày nay). Cánh phía đông do Tản Tháp Nhĩ Hải (Satartai Satardai), Lý Bang Hiến chỉ huy tiến vào Khâu Cấp (Lộc Bình, Lạng Sơn ngày nay). Thoát Hoan cùng A Lý Hải Nha dẫn đại quân theo sau cánh quân phía đông. Tại những những nơi Khâu Ôn, Khâu Cấp những trận chiến đầu tiên đã diễn ra. Cuộc chiến Đại Việt – Nguyên Mông chính thức bắt đầu.

Quốc Huy

https://1.bp.blogspot.com/-BSDElwBZroI/Wr9CjmDZAmI/AAAAAAABhFk/hGkfYC0tALw5mURaKBBoyt1yQ7zheonMQCLcBGAs/s640/42.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 43

GIẶC NGUYÊN ĐỔ QUÂN NHƯ NƯỚC LŨ
HƯNG ĐẠO VƯƠNG CHIA TƯỚNG GIỮ THÀNH


Hướng tiến công chính của quân Nguyên là ở biên thuỳ phía đông bắc, nơi Lạng Châu (Lạng Sơn ngày nay) của Đại Việt tiếp giáp Ung Châu của nước Nguyên. Vừa đặt chân vào lãnh thổ Đại Việt, trở ngại đầu tiên của quân Nguyên chính là các cửa ải. Đó là những cứ điểm phòng thủ thường đặt nằm ở các con đường núi, hai bên là vách núi cao. Địa thế vùng Lạng Giang có rất nhiều nơi có thể đặt cửa ải. Tại các ải, thông thường các bên tham chiến không thể điều động được binh lực lớn, quân giữ ải có thể lấy ít địch nhiều. Quân công phá ải chỉ có thể chia làm từng tốp quân nhỏ tiến đánh. Lớp này chết thì lớp khác lên thay. Quân Đại Việt tận dụng tối đa địa thế hiểm yếu của các cửa ải. Tất nhiên không thể hoàn toàn cản bước của giặc, nhưng có thể làm tiêu hao lực lượng của giặc ở mức độ cao nhất.

Ải Lộc Châu là cửa ải đầu tiên mà quân Nguyên tiến đánh. Với binh lực hùng hậu, quân Nguyên nhanh chóngchiếm được ải này. Không có ghi chép về việc có giao chiến tại đây, có thể quân Đại Việt đã chủ động rút trước do vị trí của ải Lộc Châu nằm quá trơ trọi ngoài biên giới. Thoát Hoan tại Lộc Châu đã chia quân làm hai mũi tiên phong đánh mạnh vào các cửa ải khác của quân ta. Mặc dù tương quan lực lượng ban đầu rất chênh lệch, các cụm quân giữ ải của Đại Việt đã dũng cảm chiến đấu, buộc địch phải trả giá đắt ngay khi chúng vừa đặt chân vào lãnh thổ nước ta.

Tại các ải Khâu Ôn, Khâu Cấp, Thất Nguyên, Thiết Lược, Vĩnh Châu, Khả Ly đều đã diễn ra những trận quyết chiến đẫm máu. Tại Thất Nguyên, quản quân Nguyễn Nộn giao chiến với cách tiên phong phía tây do Bột Đa Cáp Đáp Nhĩ cùng A Thâm chỉ huy, quân ta ít không địch nổi nhiều, dù chống trả kiên cường nhưng rốt cuộc phải lui. Quan quân ta chặn giặc ở ải Khâu Cấp, cánh quân tiên phong phía đông của Nguyên Mông do tướng Tản Tháp Nhĩ Hải và Lý Bang Hiến chỉ huy tấn công liên tiếp ba đợt đều không phá được ải, chết trận rất nhiều. Nhưng ở phía khác, ải Khả Ly bị vỡ, quản quân Đỗ Vĩ, Đỗ Hựu bị bắt nên quân các ải khác phải lui binh vào rừng núi hay rút về hậu tuyến để tránh bị giặc đánh bọc hậu.

Quan quân Đại Việt rút về thủ ải Chi Lăng, Động Bản. Bọn Tản Tháp Nhĩ Hải, Lý Bang Hiến tấn công ải Động Bản, tướng Tần Sâm của Đại Việt cùng quân lính tử chiến cho đến chết. Thoát Hoan dẫn đại quân Nguyên tiến theo sau cánh tiên phong phía đông vào ải, kéo nhau đến đóng ở thôn Biến Trú và phụ cận, chuẩn bị công phá đại doanh của quân Đại Việt do Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy trấn giữ. Trong khi đó, cánh tiên phong phía tây dưới quyền Bột Đa Cáp Đáp Nhĩ, A Thâm sau khi qua ải Thất Nguyên thì tiến một mạch đến ải Khâu Ôn,quân Đại Việt ở đây kiên trì phòng thủ khiến cho quân Nguyên không tiến được. Bấy giờ tại ải Nội Bàng (thuộc Bắc Giang), là nơi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đóng đại doanh, đích thân vị Quốc công Tiết chế đã sẵn sàng nghênh chiến.

Thoát Hoan thắng liền mấy trận đầu, sai người đem thư dụ hàng Hưng Đạo vương, hiển nhiên là không có kết quả. Hưng Đạo vương dựa vào quân tinh, luỹ chắc dự định sẽ quyết chiến với giặc tại Nội Bàng. Nhưng quân Nguyên binh nhiều tướng mạnh, lại có nhiều kẻ trong trướng tinh thông binh pháp. Ngày 2.2.1285, Thoát Hoan chia quân làm 6 cánh, tấn công làm nhiều hướng, tập dụng được triệt để lợi thế về quân số. Hưng Đạo vương ít quân, phải chia ra chống cự nhiều mặt rất vất vả. Tuy vậy quân Đại Việt tinh nhuệ và có tinh thần chiến đấu rất cao, cũng chẳng dễ gì để quân Nguyên chiếm thế thượng phong.

Đương lúc giao chiến ác liệt thì được tin ải Khâu Ôn đã vỡ, ải Chi Lăng cũng thất thủ ngay sau đó. Quả thực quân Nguyên lần này không chỉ đông, mà sức chiến đấu còn mạnh mẽ vượt ngoài cả dự kiến của Hưng Đạo vương và triều đình. Trước tình hình đó, Hưng Đạo vương hạ lệnh chia quân làm nhiều tốp, vừa đánh vừa rút lui về bến thuyền ở Bãi Tân (bến thuyền trên sông Lục Nam), rồi toàn quân lên thuyền lui về giữ Vạn Kiếp. Cuộc rút lui này không đơn giản vì giao tranh với quân Thoát Hoan rất dữ dội. Trong lúc thuyền chở quân hầu hết đã rời bến thì vẫn còn một bộ phận lớn quân Đại Việt còn kẹt lại tại chiến trường Nội Bàng, trong đó có cả Hưng Đạo vương. Thoát Hoan tung quân truy kích mãnh liệt khiến cho quân Đại Việt bị tan vỡ lớn, các hiệu quân bị mất liên lạc với nhau, mạnh ai nấy rút, đại liêu bang Đoàn Thai bị giặc bắt, một số chiến thuyền của quân ta cũng bị quân Nguyên cướp được.

Bấy giờ Hưng Đạo vương sợ rằng đến bến sẽ không còn thuyền tất bị giặc bắt, định theo đường núi mà rút lui. Gia tướng Dã Tượng tâu rằng: “Yết Kiêu chưa thấy Đại vương, tất không chịu rời thuyền”. Hưng Đạo vương nghe lời, bèn thúc quân ra Bãi Tân tìm thuyền. Quả nhiên gia tướng Yết Kiêu vẫn neo thuyền ở đó đợi chủ, mặc cho phần đông các đạo thuỷ binh khác đã rút trước. Hưng Đạo vương trông thấy Yết Kiêu, rất mừng rỡ và cảm phục lòng trung của các gia tướng, nói với mọi người xung quanh rằng: “Chim hồng hộc sở dĩ bay cao được, tất phải nhờ có sáu cái xương trụ ở cánh, nếu không có sáu cái xương trụ cứng rắn, thì chim hồng hộc cũng như loài chim thường thôi!” (theo Cương Mục).

Nói đoạn, cùng quân bản bộ dong thuyền theo dòng Lục Nam xuôi về Vạn Kiếp. Truy binh giặc đuổi tới bờ sông thì thuyền của Hưng Đạo vương đã giương buồm đi nhanh, không sao đuổi kịp. Chư quân Đại Việt tuy tan vỡ lớn ở Nội Bàng nhưng chỉ bị đánh tan mà không bị tiêu diệt, hầu hết đều tự tìm đường về hội quân tại Vạn Kiếp, quyết không nhụt chí đào ngũ. Hưng Đạo vương lại chia quân ra đóng giữ vùng Bắc Giang (thuộc Bắc Ninh ngày nay).

Vua Trần Nhân Tông ở kinh sư hay tin Hưng Đạo vương thua trận rút lui về Vạn Kiếp, lòng vô cùng lo lắng. Vua ngự thuyền nhỏ cùng hầu cận ra Hải Đông, cho dụ Hưng Đạo vương đến hỏi việc. Thuyền ngự đi gấp không chuẩn bị, đến chiều mà vua vẫn chưa ăn sáng. Người lính cận vệ bèn nấu phần gạo xấu của mình dâng lên vua. Vua gặp Hưng Đạo vương, liền hỏi: “Giặc truyền lời nói đánh để cướp đất, chúng giết người đầy đồng nội. Nay thế giặc như thế, có nên hàng chúng để cứu mệnh cho muôn dân?”. Hưng Đạo vương đáp: “Lời bệ hạ nói ra thật là lời nói cùa bậc nhân giả. Nhưng còn tông miếu xã tắc thì sao? Thần xin trước hãy chém đầu thần rồi sau hãy hàng giặc. Đầu thần nếu còn, xã tắc cũng còn. Xin bệ hạ đừng lo, thần đã có kế đánh bại giặc”.(theo Trần Đại Vương Bình Nguyên Thực Lục, dẫn theo Hà Văn Tấn). Vua bấy giờ mới yên dạ, ngự giá về Thăng Long sửa soạn thuỷ quân làm hậu viện cho quân của Hưng Đạo vương.

Hưng Đạo vương lấy quyền Quốc Công Tiết Chế, đốc suất các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm lấy thêm quân lính, chọn người dũng cảm làm tiên phong. Các vương hầu từ trước đi tuyển lính ở các xứ miền đông bắc là Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện, Minh Hiến vương Trần Uất cũng kịp kéo về hội quân ở Vạn Kiếp. Quân Đại Việt bấy giờ tại Vạn Kiếp đã đông đến hơn 20 vạn người. Mặc dù trong thành phần quân có nhiều tân binh, nhưng với lực lượng mới tập họp rất hùng hậu, khí thế quân Đại Việt lại phấn chấn lên.

Quốc Huy

https://4.bp.blogspot.com/-XwWzLPEunkc/WshmxQVpJOI/AAAAAAABjKM/iteBW8g_oAY70NlLBGPVXsRZpTUrUML_wCLcBGAs/s640/43.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 44

30 VẠN QUÂN ĐẠI VIỆT
QUYẾT CHIẾN VỚI 50 VẠN QUÂN NGUYÊN
TẠI VẠN KIẾP


Quân Nguyên sau khi thắng trận ở Nội Bàng, về cơ bản đã chiếm trọn vùng Lạng Châu. Tuy nhiên ngay tại vùng này vẫn còn những đội quân nhỏ của các thủ lĩnh n gười dân tộc thiểu số phối hợp với quân triều đình hoạt động quấy rối. Trên các đoạn đường vận lương dài từ biên giới đến nơi đóng đại doanh của Thoát Hoan luôn phải tổ chức những cụm quân đóng giữ. Thoạt đầu tại Lạng Châu, binh lực quân Nguyên vẫn tập trung. Nhưng khi vùng chiếm đóng rộng ra, giặc sẽ càng phải phân tán một lực lượng lớn chỉ dùng để đóng giữ những nơi đã chiếm và canh giữ đường hậu cần.
1.
Trận Vạn Kiếp

Tại Vạn Kiếp, Hưng Đạo vương hội quân hơn 20 vạn thì Thoát Hoan cũng hội quân ở Nội Bàng một lực lượng lớn gần 50 vạn quân. Tựu chung, binh lực của quân Nguyên vẫn đông đảo hơn quân ta rất nhiều. Cả hai bên đều ra sức tranh thủ chỉnh đốn đội ngũ. Về phía quân ta, Hưng Đạo vương bố trí thế trận phòng thủ mới ở các vùng Bắc Giang (gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, một phần Hà Nội ngày nay), Vạn Kiếp (thuộc Chí Linh, Hải Dương ngày nay).

Trong thế trận mà Hưng Đạo vương đã trù tính, vùng Bắc Giang lúc này như tấm khiên trực tiếp che chắn cho kinh thành Thăng Long, còn căn cứ Vạn Kiếp như ngọn giáo chực chờ phản kích giặc. Các phòng tuyến nhỏ ở Bình Than, Phả Lại được củng cố rào luỹ, tăng cường quân thuỷ bộ. Thuỷ quân chốt giữ chặt chẽ các ngã sông để tiện bề tiến thủ. Vua Trần hằng ngày đều cho người nghe ngóng tin tức chiến sự. Về phía địch, Thoát Hoan không thể lựa chọn tấn công vào Bắc Giang trước. Nếu đánh xuống Thăng Long theo đường Bắc Giang, quân Nguyên sẽ rơi vào thế gọng kìm, bị đại quân của Hưng Đạo vương ở Vạn Kiếp phối hợp với thuỷ quân của vua Trần ở Thăng Long trước sau cùng đánh. Quân Nguyên không còn cách nào khả thi hơn cách đánh vào Vạn Kiếp trước, rồi mới từ đó đánh vào Thăng Long bằng đường vòng.

Thoát Hoan cùng đầu não quân Nguyên đã lên một kế hoạch mới để đánh một trận lớn tấn công vào Vạn Kiếp, hòng đánh tan lực lượng chủ lực của Đại Việt trước khi tấn công Thăng Long. Chúng hy vọng sẽ đánh một trận quyết định thành bại ngay tại Vạn Kiếp. Ngoài việc chuẩn bị các lực lượng kỵ bộ là lực lượng tấn công chủ chốt, quân Nguyên tìm cướp các ván gỗ, nguyên vật liệu trong vùng, lập xưởng đóng thuyền dã chiến. Cùng với các chiến thuyền quân Nguyên đã cướp được trong trận Nội Bàng và các thuyền tìm cướp trong dân, Thoát Hoan cho lập một đội thuỷ quân với khoản vài trăm chiến thuyền. Ô Mã Nhi được giao chỉ huy đội thuỷ quân, nhận nhiệm vụ phối hợp với quân trên bộ và đánh chặn đường rút lui của quân Đại Việt. Ô Mã Nhi là một tướng dũng mãnh, có tài về thuỷ chiến bậc nhất trong quân Nguyên, được phong danh hiệu Bạt Đô (nghĩa là dũng sĩ vô địch, theo binh chế nước Nguyên).

Ngày 11.2.1285, Thoát Hoan giao cho Ô Mã Nhi làm tiên phong, cầm đầu 30 vạn quân chia làm nhiều hướng tấn công vào Vạn Kiếp. Thoát Hoan thì dẫn mười mấy vạn quân còn lại theo sau làm lực lượng dự bị. Mở màn là đòn tấn công của thuỷ quân do Ô Mã Nhi cầm đầu đánh vào phòng tuyến Bình Than. Bộ binh địch cũng tiến dọc bờ sông phối hợp, đồng thời tiến đánh núi Phả Lại. Hưng Đạo vương đem hơn 1.000 chiến thuyền bày trận trên các ngã sông Lục Nam, Lục Đầu, ngay tại bến Bình Than, gọi là trận Dực Thuỷ, ứng chiến với Ô Mã Nhi. Thuỷ quân Nguyên cậy vào cung tên ở trên bộ hỗ trợ, hùng hổ tiến vào. Quân Đại Việt không hề nao núng, dựa vào hạm thuyền hùng hậu, thuỷ quân tinh nhuệ bẽ gãy các đợt tấn công của địch.

Quân Nguyên không tiến lên được, bị thiệt hại nặng. Quân ta giết được viên Vạn hộ Nghê Thuận tại Lưu Thôn. Tuy nhiên quân Nguyên cậy đông nối nhau tấn công dồn dập. Các tướng Nguyên là Na Khai, Tôn Đức Lâm cùng đem quân phối hợp với Ô Mã Nhi, tấn công quân của Đại Việt từ nhiều hướng. Dưới sông, thuỷ quân địch tỏ ra yếu thế hơn do thuyền của quân Đại Việt nhiều và thuỷ quân thiện chiến hơn, nhưng trên bộ thì kỵ binh địch lại chiếm thế thượng phong.

Vua Trần Nhân Tông được tin cấp báo, thân đem 1.000 chiến thuyền, 10 vạn quân dự bị chiến lược từ Thăng Long lên tiếp viện cho quân của Hưng Đạo vương. Tổng cộng quân số Đại Việt tại Vạn Kiếp lúc này đã lên tới gần 30 vạn quân, tuy vậy vẫn ít hơn quân của Thoát Hoan nhiều. 30 vạn quân Đại Việt cùng gần 50 vạn quân Nguyên kịch chiến dữ dội, ba ngày trời bất phân thắng bại. Đến ngày 14.2.1285, nhận thấy quân ta dần yếu thế hơn, Hưng Đạo vương cùng vua Trần Nhân Tông hạ lệnh lui quân, theo đúng như phương châm mà ngài đã đề ra trong Binh Thư Yếu Lược: “Người giỏi thắng không cần thắng nhiều lần, mà cần toàn thắng, đảm bảo thắng”.

Lần này, do giữ được vững chắc các tuyến sông lớn nên quân ta có thể rút lui nhanh chóng bằng đường thuỷ, thuận lợi theo đường sông Đuống về Thăng Long. Hạm thuyền hùng hậu đến hàng ngàn chiếc đủ sức chở một đạo quân khổng lồ hàng chục vạn quân rút lui. Tuy nhiên, phía quân ta vẫn phải chấp nhận hy sinh một số lực lượng nhất định để ở lại đánh chặn hậu cho toàn quân có đủ thời gian rút lui an toàn. Mặc dù thuỷ quân của Ô Mã Nhi rất cố gắng đánh cắt đường lui của quân Đại Việt nhưng không thành công. Tuy không có số liệu về thương vong sau trận kịch chiến tại Vạn Kiếp, nhưng ắt hẳn cả hai phía đều bị thiệt hại nặng với mức độ giao tranh ác liệt, kéo dài như thế.
2.
Quyết tâm bảo vệ kinh thành

Chiếm được Vạn Kiếp rồi, quân Nguyên nối nhau tiến quân vào lộ Bắc Giang. Tại vùng này Hưng Đạo vương chỉ bố trí những lực lượng cảm tử với quân số ít, chủ yếu để đánh cầm chân giặc. Các châu Vũ Ninh, Đông Ngàn có khá ít quân phòng giữ nên nhanh chóng rơi vào tay giặc. Quân Nguyên chiếm được Đông Ngàn, lại bắt cầu phao tung bộ binh vượt sông Đuống đánh chiếm châu Gia Lâm, uy hiếp kinh thành Thăng Long từ mặt phía đông, thanh thế vô cùng lớn.

Tại các vùng quân Nguyên đi qua, chúng thả sức làm điều bạo ngược, tàn hại sinh linh Đại Việt. Thoát Hoan bắt được quân ta, thấy trên cánh tay có thích chữ “Sát Thát”. Hắn giận lắm, sai giết hết những tù binh. Người nước Nguyên theo đuổi một thứ ảo tưởng việc bành trướng lãnh thổ, thậm chí thống nhất thế giới bằng bạo lực. Bất luận máu chảy thành sông, xương chất thành núi chúng cũng không ngần ngại. Những việc giết hại nhân dân các nước không chịu lệ thuộc, bọn chúng coi là lẽ đương nhiên.Thoát Hoan mới vào nước ta không lâu, dựa vào quân đông tướng mạnh thắng liền mấy trận, cho là quân Đại Việt tất nhụt chí. Hắn bèn bảo A Lý Hải Nha thảo thư dụ hàng, sai người gởi cho vua Trần.

Thư viết rằng: “Triều đình điều binh chinh phạt Chiêm Thành, nhiều lần đưa thư cho thế tử (1), bảo mở đường, chuẩn bị lương thực, nào ngờ trái mệnh triều đình, để bọn Hưng Đạo Vương đem quân nghênh chiến, bắn quân ta bị thương, khiến cho sinh linh An Nam gặp hoạ, đó là do nước người làm vậy. Nay đại quân đi qua nước ngươi thảo phạt Chiêm Thành, đó là thánh chỉ. Thế tử hãy nghỉ cho kĩ, nước ngươi quy phục đã lâu, nên vì cái đức khoan hồng từ bi của hoàng đế mà ra lệnh rút quân mở đường, khuyên bảo trăm họ ai nấy cứ sinh sống làm ăn, quân ta đi qua sẽ không gây chút phiền nhiễu nào, thế tử hãy ra nghênh tiếp Trấn Nam Vương, cùng bàn việc quân. Nếu không, đại quân sẽ dừng ở An Nam mở phủ”.

Dù giặc mạnh như cuồng phong, vua tôi nhà Trần vẫn không nao núng. Tại Thăng Long, quân Đại Việt lại chuẩn bị trận địa mới đón đánh giặc. Một mặt, triều đình tổ chức sơ tán nhân dân, cung thất, lương thảo, kho tàng đi nơi khác, chủ yếu là về lộ Thiên Trường (thuộc Nam Định ngày nay), Trường Yên (thuộc Ninh Bình ngày nay) để đề phòng bất trắc.Mặt khác, quân ta điều các chiến thuyền phòng giữ các ngả sông quanh thành Thăng Long, dọc bờ sông dùng gỗ và tre làm hàng rào, sau lớp rào đặt máy bắn đá (2), gia cố hào luỹ ngoài tường thành, sẵn sàng nghênh chiến quân Nguyên để bảo vệ kinh thành. Quân Đại Việt đặt trọng binh trấn giữ tại Đông Bộ Đầu, đối trận với quân Nguyên phía bên Gia Lâm, chỉ cách nhau một con sông Hồng. Tiên phong quân Nguyên trong nhất thời không dám vượt sông tiến sang, dừng quân chờ tập kết thuỷ bộ đông đủ.

Qua việc tìm hiểu những bước chuẩn bị chiến đấu của quân Đại Việt tại Thăng Long, chúng ta cần hiểu rằng quân đội nhà Trần đã có cố gắng nhất định để bảo vệ kinh thành khỏi sự chiếm đóng của giặc. Điều này hoàn toàn trái ngược với một số nhận định chủ quan cho rằng nhà Trần không chú trọng việc bảo vệ kinh thành, dễ dàng để ngỏ cho quân Nguyên vào chiếm thành để thực hiện “vườn không nhà trống”. Thực tế, kế “vườn không nhà trống” nổi tiếng chỉ là phương án dự phòng trong chiến lược của vương triều Trần. Cuộc chiến tại thành Thăng Long sẽ lại là một trận chiến quy mô khá lớn.

Quốc Huy
(1): Người Nguyên luôn coi Thượng hoàng mới thực sự là vua Đại Việt. Còn vua đương nhiệm thì gọi là Thế tử. Ý chúng là không công nhận việc nhường ngôi của Đại Việt vì chưa “xin mệnh”.
(2): Nguyên sử chép là “pháo”. Thời này từ Pháo đa phần chỉ máy bắn đá, tức Cự thạch pháo. Còn súng thần công, đại bác là vũ khí ít thông dụng trong thời bấy giờ, thường gọi là hoả pháo, hoả đồng.

https://4.bp.blogspot.com/-lXwGXNodhiw/WtLIN8bnn-I/AAAAAAABkWU/2b1S4S1p9zAtwrkfqW4YLQLfl0meuMJFwCLcBGAs/s640/44.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 45

TƯỚNG NGUYÊN NƯỚNG QUÂN
DƯỚI CHÂN THÀNH THĂNG LONG


Sau trận Vạn Kiếp, chỉ trong ba ngày quân Nguyên đã kéo quân đến sông Hồng, bên đây sông chính là kinh thành Thăng Long. Ngày 17.2.1285, thuỷ bộ quân Nguyên đã tiến đến Gia Lâm, làm chủ nhiều nơi ở Bắc Giang, uy hiếp kinh thành từ cả hai mặt đông và đông bắc. Quân Nguyên tạm thời chưa thể tấn công ngay được vì quân Đại Việt đã củng cố được tuyến phòng thủ vững chắc, buộc địch phải bỏ thời gian hội quân đông đủ, chuẩn bị khí cụ vượt sông và công thành. Quân Đại Việt tuy đã chuẩn bị thế trận phòng thủ, thể hiện quyết tâm bảo vệ kinh đô nhưng hoàn toàn không hề có ý định cố thủ. Hưng Đạo vương đã trù tính hai phương án lớn. Hoặc là quân ta sẽ đánh bại quân Nguyên nhanh chóng và đuổi chúng về nước trong một trận, hoặc là sẽ rút lui bảo toàn lực lượng, chuyển sang trường kỳ kháng chiến, chờ đến khi quân địch mệt mỏi và thiếu thốn về hậu cần. Bằng chứng là quân Đại Việt đã cho sơ tán các kho lương thảo khỏi kinh thành Thăng Long. Không chuẩn bị lương thảo lâu dài trong thành, cũng tức là không chuẩn bị cố thủ lâu dài trong thành. Trong chiến lược phòng ngự chủ động của Hưng Đạo vương, ngài đã tiên liệu rằng bằng mọi giá, quân Đại Việt sẽ không để bị quân địch bao vây.

Tranh thủ thời gian ngắn ngủi chiến sự tạm lắng, vua Trần muốn sai sứ sang trại quân Nguyên, mượn tiếng đàm phán để dò xét quân tình địch. Vì hai quân đang giao tranh dữ dội, bá quan vẫn sợ quân Nguyên sẽ chém sứ, ai nấy đều ngần ngại chưa dám đi.

Vua Trần Nhân Tông đang trong nhất thời chưa tìm được người đi sứ thì có viên Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung tâu lên: “Thần hèn mọn bất tài nhưng xin được đi”.

Vua Trần cả mừng, nói rằng: “Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế”.

Đỗ Khắc Chung mang thư sang trại giặc, vào trướng Ô Mã Nhi mà đưa thư. Đoạn đối thoại của Ô Mã Nhi và Đỗ Khắc Chung đã được Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép tỉ mỉ:

“Ô Mã Nhi hỏi: “Quốc Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ “Sát Thát”, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm”.
Khắc Chung đáp: “Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi. Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có?”.
Nói rồi giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói: “Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?”.
Khắc Chung nói: “Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người”.
Ô Mã Nhi nói: “Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp mê thì trong khoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát”.

Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo các tướng rằng: “Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xướng là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói “Chó nhà cắn người”, thật giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được”.

Nói xong, Ô Mã Nhi sai quân đuổi theo Đỗ Khắc Chung toan bắt lại nhưng không kịp. Sáng sớm ngày 18.2.1285, Đỗ Khắc Chung về đến doanh trại báo cáo lại tình hình phía quân Nguyên mà ông quan sát được. Những thông tin này rất có giá trị, góp phần vào việc hoạch định kế sách chống giặc. Nhờ chuyến đi sứ đầy mưu trí và dũng cảm này, Đỗ Khắc Chung được trọng dụng và ban quốc tính, đời sau biết đến với tên Trần Khắc Chung. Về sau, Khắc Chung làm quan thăng đến chức Hành Khiển.

Ngay khi Trần Khắc Chung về đến trướng quân Đại Việt không lâu thì quân Nguyên dưới quyền Ô Mã Nhi cũng kéo quân tới đánh. Quân ta đã chuẩn bị trước nên đẩy lui được giặc, không cho chúng vượt sông, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch.Quân Đại Việt lại dùng máy bắn đá bắn sang bờ bắc khiêu chiến. Sau đợt tấn công đầu tiên thất bại, ngay trong ngày 18.2.1285, Thoát Hoan kéo toàn bộ lực lượng mở đợt tấn công quy mô lớn trải dọc theo bờ sông Hồng. Trọng tâm cuộc tấn công của quân Nguyên là từ Gia Lâm vượt sông đánh vào căn cứ Đông Bộ Đầu. Vị trí của Đông Bộ Đầu thời bấy giờ nằm về phía đông nam chân thành Thăng Long. Tấn công mạnh vào nơi này, quân Nguyên thể hiện rõ ý đồ chặn đường rút quân về phía nam của quân Đại Việt. Hưng Đạo vương quan sát thế trận biết được toan tính của địch, phò xa giá và Thượng hoàng rút lui, để lại một số quân tướng thủ thành nhằm cầm chân và tiêu hao lực lượng địch càng nhiều càng tốt.

Thoát Hoan cùng A Lý Hải Nha, hai tướng đứng đầu đội quân xâm lược đích thân đứng ra đốc chiến, khiến kỷ luật quân Nguyên rất vững. Bộ binh quân Nguyên bất chấp tên đạn bắn ra từ bờ nam sông Hồng và từ các thuyền trên sông, hết lớp này đến lớp khác liều chết bắc cầu phao vượt sông ồ ạt. Máy bắn đá và cung nỏ của quân Đại Việt bắn xối xả, gây cho địch rất nhiều thương vong nhưng cũng không cản nổi quân Nguyên vượt sông. Sang đến bờ nam rồi, chúng lại đổ máu lớn trước hàng rào gỗ bởi cung tên của quân Đại Việt. Tuy nhiên, quân công thành rất đông và khí thế rất dữ tợn, nhanh chóng phá thủng hàng rào gỗ để tiến gần đến chân thành, giáp chiến với quân thủ thành. Trong lúc này thì phần đông quân chủ lực Đại Việt và đầu não triều đình đã đi được khá xa trên đường rút lui về Thiên Trường – Trường Yên.

Thoát Hoan vẫn chưa hay biết rằng chủ lực ta đã rút gần hết, kéo đại quân sang bờ nam, đóng doanh luỹ dưới chân thành, tiếp tục xua quân đánh thành. Thế trận tại Thăng Long đã định đoạt. Thuyền chiến Đại Việt đánh với quân Nguyên cũng quay mũi rút về nam, một số bỏ thuyền lên bộ để lẫn tránh rồi sau mới tìm đường về với đại quân. Chưa đầy một ngày, thành Thăng Long đã bị hạ, tất nhiên với một cái giá khá đắt cho quân Nguyên. Đến hôm sau, ngày 19.2 Thoát Hoan mới kéo quân vào trong nội thành. Bấy giờ hắn mới nhận ra Thăng Long đã là một toà thành trống rỗng. Cung thất, kho tàng, dân chúng đều đã sơ tán. Vua tôi nhà Trần và quân đội cũng mất hút. Thoát Hoan vội phái truy binh tức tốc đuổi theo quân Đại Việt. Sau trận chiến, mặc dù quân Nguyên vẫn tổ chức yến tiệc mừng thắng trận, nhưng trong quanh cảnh trống vắng tiêu điều của thành Thăng Long, nỗi lo sợ sẽ giống như cái gương của Ngột Lương Hợp Thai khi trước đã hiện ra. Thoát Hoan ra ngoài thành đóng đại doanh, nghe ngóng tin tức của truy binh.

Quốc Huy

https://4.bp.blogspot.com/-q5Qfp030-YE/WtwWa3QRm3I/AAAAAAABmS0/bt2qWm0_tG40XbmuSqScAAHUeyrzQWlEACLcBGAs/s640/45.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 46

QUÂN NGUYÊN MÔNG TUNG ĐÒN GIÓ
TRẦN NHẬT DUẬT PHÁ THẾ GỌNG KỀM


1.
Tương quan lực lượng mặt trận tây bắc

Trong lúc chiến sự diễn ra quyết liệt ở trung châu nước Đại Việt, thì ở vùng biên thuỳ mạn tây bắc, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật cũng cầm quân đương đầu với quân Nguyên từ Vân Nam tiến sang. Cánh quân Nguyên ở Vân Nam do viên Bình chương Vạn hộ hầu Nạp Tốc Lạt Đinh (Naxirut Din) chỉ huy, ước chừng có hơn 1 vạn quân. Trong thành phần cánh quân này bao gồm cả quân lính người Mông Cổ và người Vân Nam. Nạp Tốc Lạt Đinh dẫn quân tiến theo con đường mà ngày trước đội quân của Ngột Lương Hợp Thai đã đi, từ châu Quy Hoá đánh xuống. Cánh quân Nguyên này đóng vai trò thứ yếu trong kế hoạch của Nguyên triều, cốt là để phân tán lực lượng của Đại Việt mà thôi. Tuy vậy, quân Đại Việt cũng không thể không điều quân trấn giữ vùng tây bắc. Nếu để hở hướng này, thì đòn hư sẽ biến thành đòn thực. Quân của Nạp Tốc Lạt Đinh một khi tiến xuống phối hợp với đại quân của Thoát Hoan hai mặt giáp công thì quân Đại Việt tất sẽ rơi vào thế hiểm nghèo. Bởi vậy, Hưng Đạo vương đã giao cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật phụ trách mặt trận tây bắc, có nhiệm vụ chặn đứng quân địch, không cho chúng phối hợp với đại quân phía đông bắc của Thoát Hoan. Hưng Đạo vương còn bố trí quân đóng ở Tam Đái, do Hoài Thượng hầu Trần Lộng chỉ huy làm hậu viện cho quân ở mạn tây bắc.

Chiêu Văn vương là em thứ 6 của Thượng hoàng Trần Thánh Tông, chú của vua Trần Nhân Tông. Bấy giờ ông còn rất trẻ, chỉ mới 30 tuổi đã đảm nhận trọng trách trong quân. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật là người tuổi trẻ tài cao, tài khiêm văn võ. Đặc biệt, Chiêu Văn vương có kỳ tài về ngoại ngữ, không chỉ am hiểu tiếng nói mà còn hiểu biết phong tục tập quán của các sắc dân. Nhờ có năng lực, ngoài 20 tuổi ông đã được triều đình cho phụ trách ngoại giao và giao thiệp với các sắc dân thiểu số. Năm 1280, Trịnh Giác Mật ở Đà Giang làm phản, ông một mình vào trong sào huyệt của địch dụ hàng, khiến cho Trịnh Giác Mật cảm phục mà theo về kinh thành tạ tội. Triều đình Đại Việt nhờ ông mà dẹp yên được đạo Đà Giang, vừa không tốn một binh một tốt vừa thu phục được lòng dân ở đó.

Đặc điểm của các lực lượng quân sự tại vùng biên giới tây bắc có khác biệt lớn với vùng trung châu nước Đại Việt. Do binh lực Đại Việt phần lớn phải dồn cho chiến trường chính phía mạn đông bắc, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật chỉ trực tiếp nắm giữ vài ngàn quân, với thành phần lực lượng đủ mọi sắc tộc. Quân của ông bao gồm quân triều đình người Việt trung châu, quân sơn cước người Tày và các tộc thiểu số, quân người Tống sang quy phụ. Với lực lượng ít, không đồng nhất lại phải tác chiến độc lập, nhiệm vụ của Trần Nhật Duật không hề dễ dàng.

Triều đình Đại Việt không áp dụng chế độ trực trị đến châu huyện mà cho các tù trưởng nơi này quyền tự trị và thế tập. Họ thể hiện sự quy phục triều đình bằng cách nộp thuế, nốp cống phẩm, cho đất trú quân và điều quân phối hợp khi có chiến tranh. Tù trưởng các trại, châu, động nơi này tự cầm quân bản bộ của mình. Họ chỉ chiến đấu hiệp đồng với quân triều đình chứ không tách ghép quân lực, triều đình cũng không thể can thiệp sâu vào nhân sự, nội bộ của các đội quân người thiểu số. Thậm chí, nếu tình hình diễn biến phức tạp thì các sắc dân thiểu số có thể còn trở giáo theo phe địch. Bởi dù có chung một quốc gia, các sắc dân tây bắc thời kỳ này vẫn chưa thực sự coi người Việt là đồng chủng đồng văn. Quốc gia đối với họ đơn giản là một liên minh cực lớn của các cộng đồng. Trấn thủ vùng tây bắc, Chiêu Văn vương đã phải rất khéo léo thu phục được lòng trung thành của các sắc dân nơi này. Gặp dân ăn bốc thì ông cũng ăn bốc, gặp người uống bằng mũi thì ông cũng uống bằng mũi. Dân trong vùng người người đều cảm mến. Nhờ vậy mà các tù trưởng và quân dân các sắc dân thiểu số sẵn lòng xả thân cho Đại Việt ngay cả khi quân Nguyên chiếm thế thượng phong và quân triều đình phải rút lui khỏi vùng.
2.
Chiến sự tây bắc

Tại vùng tây bắc nước Đại Việt, châu Quy Hoá là cửa ngõ đầu tiên mà quân Nguyên tiến vào. Tại đây có dòng họ Hà người Tày, đời đời nối giữ chức trại chủ, là thế lực lớn mạnh và có uy tín nhất vùng Quy Hoá. Bấy giờ Hà Đặc là trại chủ Quy Hoá, cùng em là Hà Chương cả hai đều là người tuấn kiệt, mưu trí. Quân Nguyên với lực lượng mạnh đánh vào Quy Hoá, Chiêu Văn vương không thể mạo hiểm đem quân quá xa đại doanh ở trại Thu Vật mà ứng cứu. Bởi nhiệm vụ của ông là phòng thủ, bảo toàn lực lượng. Hà Đặc thế cô không thể đương đầu trực diện với giặc, chỉ đánh thăm dò rồi rút quân, nhường đường lớn cho Nạp Tốc Lạt Đinh tiến qua. Tuy nhiên, Hà Đặc không dễ dàng để yên cho quân Nguyên tung hoành. Ông chỉ huy quân rình rập sau hậu tuyến của quân Nguyên, đêm ngày đánh tỉa, bám đuôi giặc từ vùng núi non biên giới đến tận vùng đồng bằng. Mặc dù cách đánh này không ảnh hưởng lớn đánh tiến độ hành quân của quân Nguyên nhưng khiến cho giặc phải phân tán tinh thần và lực lượng.

Qua được địa bàn châu Quy Hoá, Nạp Tốc Lạt Đinh đối đầu với cửa ải Thu Vật (Yên Bình, Yên Bái ngày nay) của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật trong lúc mà chiến sự ở vùng Vạn Kiếp – Thăng Long đang gay go. Nhật Duật vừa giao chiến với quân của Nạp Tốc Lạt Đinh, vừa nghe ngóng quân tình ở mặt trận miền đồng bằng. Theo các sử liệu cũ, đã không có trận quyết chiến nào diễn ra ở đây. Nạp Tốc Lạt Đinh có ý muốn diệt gọn quân của Chiêu Văn vương, sai kỵ binh ngầm đi vòng ra sau trận tuyến của Đại Việt một quãng xa để mai phục, sau đó tung quân chia làm nhiều cánh tấn công mạnh vào trại Thu Vật. Chiêu Văn vương sau khi giao chiến vài trận nhỏ tiêu hao lực lượng địch, bèn hạ lệnh rút quân bảo toàn lực lượng. Bấy giờ căn cứ Tam Đái vẫn còn phía sau, Chiêu Văn vương vẫn có thể trông cậy vào đó mà phối hợp chặn giặc bảo vệ Thăng Long. Quân Đại Việt xuống thuyền rút theo dòng sông Lô về xuôi. Chiêu Văn vương ngồi trên chiến thuyền, quan sát thấy quân Nguyên trên bờ đuổi theo sau nhưng lại đi thong thả bèn nói với tướng sĩ: “Phàm đuổi thì cần nhanh, nay giặc tiến từ từ, sợ có tiền quân chắn ngang phía trước”.Nói xong sai quân đi trước do thám, quả nhiên phát hiện thấy phục binh của địch đợi sẵn ở phía hạ lưu. Chiêu Văn vương đã biết được quỷ kế của Nạp Tốc Lạt Đinh, sai quân bỏ thuyền lên bộ, hướng về Thăng Long.

Ngày 20.2.1285, quan quân về đến vùng Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ ngày nay) thì được tin Thăng Long đã thất thủ, đại quân cùng triều đình đã rút lui về đông. Lúc này trong quân có nhiều người hoang mang lo lắng. Chiêu Văn vương bèn cho dừng quân bên ngã ba sông Bạch Hạc, cùng ba quân làm lễ cắt tóc tuyên thề trước thần linh: “Nguyện dốc hết lòng trung để báo đền quân thượng”.Làm lễ xong, tinh thần quân sĩ lại lên cao. Chiêu Văn vương cùng các tướng sĩ trèo đèo vượt sông, tìm về với đại quân triều đình. Tại Tam Đái, quân của Trần Lộng cũng rút lui để tránh việc bị kẹt giữa hai khối quân lớn của Nạp Tốc Lạt Đinh và Thoát Hoan. Nạp Tốc Lạt Đinh tuy đánh lui được Chiêu Văn vương nhưng chịu thiệt hại không nhỏ do bị quân của Hà Đặc tập kích và cũng bị tổn thất tại Thu Vật.

Nạp Tốc Lạt Đinh phải chia quân đối phó với quân của các tù trưởng khá vất vả, chỉ còn có thể huy động được 1.000 quân đến hội với cánh quân của Thoát Hoan. Chẳng những vậy, tuyến hành lang hậu cần phía sau liên tục bị quấy rối,khiến quân của Nạp Tốc Lạt Đinh trở thành một gánh nặng về quân lương cho toàn bộ đoàn quân Nguyên xâm lược. Còn về phía Đại Việt, tuy mất kinh đô như đã phá được một gọng kìm trong thế ba gọng kìm. Quân Đại Việt giờ đây lại tập trung đối phó thế gọng kìm mới. Phía bắc là quân của Thoát Hoan ào ào đánh xuống, phía nam là quân của Toa Đô thừa thế đánh lên. Tình hình vẫn còn rất cam go, đòi hỏi phải có được bản lĩnh phi thường để đi đến thắng lợi.

Quốc Huy

https://3.bp.blogspot.com/-dAKEA5oY5ts/WuU89JOeYhI/AAAAAAABm8A/CrytYhcYkCcAy-OWwLItP4TqmxJUY7TVwCLcBGAs/s640/46.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 47

TRẦN BÌNH TRỌNG
KHÔNG THÈM ĂN CƠM CỦA GIẶC PHƯƠNG BẮC


Kể từ khi từ vùng biên giới tiến xuống đồng bằng, đội thuỷ quân của luôn được Thoát Hoan trọng dụng cho làm mũi tiên phong. Sau khi chiếm được thành Thăng Long, đội chiến thuyền lại tiếp tục nhận nhiệm tiên phong vụ truy kích vua tôi nhà Trần. Chỉ huy thuỷ quân bấy giờ ngoài Ô Mã Nhi còn có viên Tả thừa Lý Hằng được tăng cường thêm. Theo sau tiếp ứng đội thuyền chiến này là đám kỵ binh thiện chiến dưới quyền chỉ huy của viên Hữu thừa Khoan Triện (Koncak), Vạn hộ Mang Cổ Đải (Mangqudai), Vạn hộ Bột La Cáp Đáp Nhi (Bolqadar)…

Mỗi cánh thuỷ bộ đều có vài vạn quân. Số quân này là những thành phần tinh nhuệ nhất mà Thoát Hoan có được trong tổng số toàn bộ đội quân sang xâm lược Đại Việt. Tại Thăng Long, Thoát Hoan vẫn đóng một lực lượng lớn làm dự bị. A Lý Hải Nha, tên tướng lão luyện luôn ở bên cạnh chủ soái Thoát Hoan dự trù kế sách. Kỳ thực, A Lý Hải Nha mới chính là bộ óc cho cuộc xâm lược Đại Việt.

Về phía quân ta, sau khi rút đại quân khỏi thành Thăng Long thì Hưng Đạo vương đưa vua Trần Nhân Tông, Thượng hoàng Trần Thánh Tông cùng đầu não triều đình cùng phần lớn lực lượng về phủ Thiên Trường. Vua Trần sai sứ sang trại giặc xin hoãn binh, dẫn An Tư công chúa đến cống cho Thoát Hoan để làm Mỹ Nhân kế, hòng khiến Thoát Hoan chậm trễ việc truy kích.

Hy sinh thân mình làm thê thiếp cho giặc, An Tư công chúa góp phần làm chậm nhịp tấn công của giặc. Cần lưu ý rằng, ngay cả đại quân của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng chỉ chặn giặc được hơn 1 ngày tại trận Nội Bàng, 4 ngày tại trận Vạn Kiếp. Trong khi đó, sự truy kích của giặc chỉ cần chậm trễ trong vài giờ đã dẫn đến những khác biệt lớn về chiến lược. Sự hy sinh của An Tư tuy thầm lặng nhưng rất đáng được ghi nhận.
Trên tuyến đường thuỷ bộ trải dài từ Thăng Long đến Thiên Trường, các chốt phòng thủ vốn đã được bố trí từ trước nay được giao cho những đội quân tinh nhuệ lĩnh nhiệm vụ chặn hậu, kéo giãn thời gian cho đại quân bố trí lại lực lượng.
1.
Trận Đà Mạc

Chốt chặn thứ nhất do Kiến Đức hầu Trần Bình Trọng phụ trách, trấn giữ bãi Đà Mạc (nay thuộc xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, Hưng Yên), một cù lao nằm giữa sông Thiên Mạc (đoạn sông Hồng chảy qua các tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình ngày nay). Địa hình nơi này thích hợp cho một thế trận thuỷ bộ phối hợp. Thời bấy giờ, nơi đây là một khúc sông nhỏ, thuận lợi để lấy ít địch nhiều. Cù lao chia con sông làm hai nhánh, giúp cho quân Đại Việt có thể bố trí thuỷ quân ở hai cánh và bộ binh đóng ở giữa phối hợp với nhau. Thuỷ quân Nguyên dù đông hơn nhưng khi kéo tới đây tự nhiên rơi vào thế bị bao vây từ ba hướng. Trần Bình Trọng chỉ có trong tay một ít chiến thuyền và vài ngàn quân, dựa vào địa thế hiểm yếu đã bày ra một trận thế cảm tử để chặn đứng quân giặc.

Quân Nguyên kéo đến Đà Mạc vào khoảng ngày 21.2.1285, thuỷ quân bị dồn ứa lại. Quân tiên phong nước Nguyên giao chiến với quân Đại Việt hồi lâu không vượt qua được, đánh liên tiếp mấy đợt đều bị Trần Bình Trọng đẩy lui. Trần Bình Trọng đã chặn đứng đoàn truy binh hơn chục vạn quân Nguyên trong quãng thời gian đến 3 – 4 ngày trời, tiêu diệt rất nhiều quân địch. Quân Nguyên hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác không chọc thủng được tuyến phòng thủ tưởng chừng mỏng manh của quân Đại Việt. Chúng vừa tức giận, vừa nể phục tài năng của Trần Bình Trọng và quân sĩ dưới trướng của ông.

Đến ngày 24.2, quân Nguyên dưới trướng Tả thừa Lý Hằng, Hữu thừa Khoan Triện phối hợp thuỷ bộ cùng đánh. Bấy giờ quân của Trần Bình Trọng thế cô, tên cùn giáo gãy vẫn chiến đấu ngoan cường đến sức cùng lực kiệt, hầu hết đều hy sinh. Kiến Đức hầu bị giặc bắt sống. Chủ tướng giặc là Lý Hằng thấy ông dũng mãnh thiện chiến, sinh lòng thương tiếc anh hùng, bày tiệc chiêu đãi hòng dụ dỗ ông quy hàng. Quân Nguyên khi chinh phạt các nước cũng đã từng chiêu mộ khá nhiều hàng tướng. Trong số các hàng tướng, không ít người đã lập được nhiều chiến công lớn.

Tuy nhiên, lần này bọn giặc đã gặp phải khí phách hiên ngang của một vị tướng kiêu dũng, một người con đất Việt. Trần Bình Trọng tuyệt thực không ăn uống. Quân giặc gạ hỏi việc quân, việc nước nhưng ông đều lặng im không đáp. Tướng giặc lại đem chức tước ra dụ dỗ, hỏi ông: “Có muốn làm vương đất Bắc không?”. Kiến Đức hầu Trần Bình Trọng bèn khẳng khái đáp: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Câu nói mãi đi vào sử sách Việt Nam như một tuyên ngôn lớn về lòng yêu nước, về ý chí kiên cường, bất khuất trước cường bạo. Biết không thể lung lạc được, giặc giết ông vào ngày 26.2.1285.

Tin Trần Bình Trọng tử tiết về đến đại doanh, vua Trần vật vã khóc thương ông, truy phong làm Bảo Nghĩa vương để nêu gương cho các tướng sĩ. Về sau, vua Trần truy phong Trần Bình Trọng tước Đại vương, là tước vị sánh ngang với Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và Chiêu Văn vương Trần Quang Khải nhờ chiến công chặn giặc xuất sắc và ý chí hiên ngang của ông. Sau trận Đà Mạc, quân Nguyên hầu như không còn hy vọng đuổi bắt vua Trần nữa. Về mặt cục bộ, tất nhiên quân Nguyên với lực lượng đông hơn hàng chục lần đã thắng đội quân của Trần Bình Trọng. Nhưng về mặt chiến lược toàn cục, trận Đà Mạc là một chiến thắng quan trọng của Đại Việt.
2.
Trận Hải Thị

Chốt chặn thứ hai trên sông Hồng là tại ngã ba sông Hải Thị, nơi sông Luộc hợp lưu với sông Hồng (vùng ngã ba sông giáp ranh hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình ngày nay). Tại đây địa thế cũng giống với bãi Đà Mạc nhưng khác biệt là có các cù lao lớn nằm ở giữa sông. Tranh thủ thời gian quân của Trần Bình Trọng cầm chân Lý Hằng, Ô Mã Nhi, Khoan Triệt ở Đà Mạc thì quân Đại Việt trấn giữ tại Hải Thị đã chuẩn bị một cụm cứ điểm phòng ngự mới. Quân ta cắm cọc ngăn sông tại những chỗ ven bờ, làm hẹp thuỷ lộ của địch. Trên bờ quân Đại Việt đặt bộ binh yểm trợ cho đội chiến thuyền dưới lòng sông.

Ban đầu trong kế hoạch của Hưng Đạo vương, phải cần đến hai chốt chặn hậu mới đảm bảo đủ thời gian cho quan quân Đại Việt tổ chức lại lực lượng sau khi rút lui khỏi Thăng Long, ổn định lại đội ngũ, bố trí thế trận ở Thiên Trường – Trường Yên. Nhưng trong diễn biến thực tế, Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đã hoàn thành nhiệm vụ quá xuất sắc, giúp cho quãng thời gian của quân đội Đại Việt được kéo dài hơn dự kiến. Chốt phòng ngự tại Hải Thị từ chỗ giữ vai trò phòng thủ chặn hậu, nay trở thành một cứ điểm để đánh tiêu hao lực lượng truy binh của địch.

Có lẽ đã rút được nhiều kinh nghiệm từ trận Đà Mạc, lần này quân Nguyên tổ chức hiệp đồng thuỷ bộ rất bài bản. Lý Hằng chỉ huy thuỷ quân, Khoan Triệt chỉ huy bộ binh phối hợp với nhau tấn công dồn dập vào căn cứ. Quân Đại Việt dựa vào địa lợi tiếp tục lối đánh tiêu hao lực lượng quân địch, sau đó dong thuyền rút về Thiên Trường.

Quân Nguyên nhanh chóng vượt qua được Hải Thị nhưng bấy giờ chúng đã mất đi thế truy đuổi. Quân Đại Việt ở căn cứ mới đã ổn định thế trận, với lực lượng phòng thủ tập trung đông hơn hẳn truy binh của Lý Hằng. Tả thừa Lý Hằng, tổng chỉ huy lực lượng quân Nguyên truy đuổi bấy giờ nhận ra trước mặt hắn đang có hàng chục vạn quân Đại Việt vẫn có khá nguyên vẹn bộ khung đang rình rập ở vùng sông nước ven biển. Trong khi đó, lực lượng của Lý Hằng càng đuổi xa, càng hao hụt và mệt mỏi như mũi tên bay hết đà. Lý Hằng vì vậy không dám mạo hiểm tiến vào vùng Thiên Trường – Trường Yên mà trở về hội quân cùng Thoát Hoan. Đó là một quyết định thể hiện sự thận trọng và lão luyện của viên tướng từng dày dặn trận mạc.

Thoát Hoan bấy giờ đang đóng quân ở Thăng Long, có ý chờ đợi Toa Đô từ mặt nam đánh ra để phối hợp. Quân Nguyên ra sức củng cố vùng chiếm đóng, dựng nhiều đồn trại. Vì sao Thoát Hoan không dốc toàn lực tấn công vào Thiên Trường – Trường Yên ngay lập tức? Đó là do những yếu tố khách quan mà bất kỳ đội quân xâm lược nào cũng gặp phải khi chiến đấu dài ngày ở nước ngoài, buộc địch phải tạm dừng cuộc truy kích. Những yếu tố này xin được phân tích kỹ ở kỳ sau.

Quốc Huy

https://3.bp.blogspot.com/-jZ5tZ_Vm9LE/Wu6pdCY39iI/AAAAAAABpSA/EpJtel-xB2AT7ucCHAh3GZaTzhjyf_ifACLcBGAs/s640/47.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 48

HƯNG ĐẠO VƯƠNG XUẤT BINH
QUÂN NGUYÊN MẤT VẠN KIẾP


Quân Nguyên từ lúc tiến vào nước ta, hầu như toàn thắng trong các trận giao chiến lớn. Tuy nhiên, chúng đã dần sa vào một cái bẫy lớn mà quân dân Đại Việt bày ra. Quân Nguyên càng chiếm rộng ra thì càng vấp phải sự mâu thuẫn giữa việc phân tán và tập trung. Một mặt, chúng phải dồn quân đủ mạnh để tiếp tục chiến đấu những trận lớn tại một số điểm nhất định với quân đội chủ lực nhà Trần.

Mặt khác, quân Nguyên phải rải quân để đồn trú những nơi chúng đã chiếm đóng được đề phòng các cánh quân tác chiến độc lập của ta đánh úp cắt đứt các tuyến liên lạc, hậu cần của chúng. Các điểm quan trọng như Lạng Giang, Vạn Kiếp, Thăng Long, Thiên Mạc… quân Nguyên đều phải chia quân đóng giữ. Mỗi cụm quân ước chừng đều có từ vài ngàn đến vài vạn quân trở lên. Bên ngoài các điểm đóng quân lớn, còn cần phải có một hệ thống đồn trại dọc các tuyến đường để kiểm soát việc liên lạc. Riêng đoạn đường hậu cần từ biên giới kéo dài đến Thăng Long là huyết quản của đoàn quân xâm lược, chúng đã phải rải một lực lượng lớn trên toàn tuyến đường.

Sở dĩ quân Nguyên phải bỏ công sức vào việc đồn trú, kiểm soát các vùng mà chúng đã chiếm được là vì quân Đại Việt đã phá được kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của chúng. Thấm thoát cuộc chiến đã kéo dài ngót 1 tháng mà hy vọng bắt được đầu não Đại Việt, dứt điểm nhanh cuộc chiến của Thoát Hoan gần như tiêu tan. Hưng Đạo vương đã thành công trong việc buộc chúng phải chuyển sang một cuộc chiến tiêu hao dài ngày mà ngày nay chúng ta đã quen với cụm từ Trường kỳ kháng chiến.

Để nuôi hy vọng chiến thắng trong một cuộc chiến dài ngày, điều tiên quyết đối với quân Nguyên là phải đảm bảo được hậu cần. Một đội quân chỉ có thể tiếp tục chiến đấu khi có đủ cái ăn, thuốc thang, khí giới. Mặc dù trong quãng thời gian cuối tháng 2/1285, quân Nguyên chưa thực sự bị thiếu lương thực, nhưng số quân lương mà quân giặc mang theo đang cạn dần. Trước tình hình đó, Thoát Hoan sai Vạn hộ Lý Bang Hiến, Lưu Thế Anh phụ trách mở đường hậu cần kéo dài từ trại Vĩnh Bình đến tận đại doanh quân Nguyên bấy giờ ở Thăng Long.

Cứ mỗi 30 dặm quân Nguyên đặt một trại, mỗi 60 dặm đặt một trạm ngựa. Mỗi trại, mỗi trạm lại phải đặt 300 quân chốt giữ. 50 vạn quân Nguyên vì việc chia quân đóng giữ mà buộc phải dàn mỏng quân số ra khắp lãnh thổ Đại Việt. Chúng trở nên mất đi ưu thế số đông ban đầu khi cần giao chiến tại một điểm nhất định trên chiến trường.

Dẫu rằng đã rất cố gắng kiểm soát các vùng chiếm đóng, quân Nguyên vẫn không giải quyết triệt để được việc chống lại sự kháng cự của nhân dân làng xã và các cách quân tác chiến độc lập của Đại Việt. Về lâu dài, quân Nguyên không thể chỉ trông cậy vào nguồn hậu cần vận chuyển từ nước của chúng sang vì đoạn đường khá xa và qua nhiều núi non hiểm trở, buộc lòng chúng phải toả ra cướp phá lương thực ở các làng mạc để nuôi quân. Những lần xâm lược các nước khác, quân Nguyên Mông rất giỏi việc lấy lương thực nước đối địch để nuôi quân. Nhưng lần này, quân dân Đại Việt đã có chuẩn bị trước theo quân lệnh của triều đình.

Tại các làng xã, nhân dân đã chủ động cất giấu lương thực và dựng luỹ chiến đấu. Trái với việc hành quân đánh thành, việc vơ vét lương thực trong dân đòi hỏi quân giặc phải chia quân thành các nhóm nhỏ. Quân Nguyên đi đến đâu là cướp phá và giết chóc, nhưng chúngcàng dùng bạo lực thì nhân dân các làng càng kiên cường chống trả. Làng Cổ Sở, nơi mà quân Nguyên đã phải trả giá đắt khi tiến vào cướp phá ở cuộc chiến năm 1285, nay lại là một chiến luỹ bất khả xâm phạm. Trên toàn Đại Việt có biết bao ngôi làng như thế. Điều đó khiến quân Nguyên mất đi một nguồn hậu cần lớn mà chúng vẫn thường sử dụng trong các cuộc xâm lược, lại phải hao tốn nhân mạng vào những vụ cướp bóc.

Cùng chiến đấu với những cư dân làng xã, còn có quân của các vương hầu, các tù trưởng. Bấy giờ tại vùng Lạng Sơn, có tù trưởng Nguyễn Thế Lộc, người dân tộc Tày là người tài trí, dũng cảm. Nguyễn Thế Lộc được triều đình phong chức Quản quân, chỉ huy một đạo quân bao gồm người dân tộc thiểu số và cả quân của triều đình. Đội quân của Nguyễn Thế Lộc hay đặt mai phục ở những tuyến đường mà giặc đi qua, quấy rối tiêu hao lực lượng của chúng. Quân của Hà Đặc thì hoạt động ở vùng tây bắc, kéo xuống đến tận vùng Phù Ninh, Tam Đái là những vùng giáp Thăng Long ở phía tây bắc.

Hà Đặc cầm quân thoắt ẩn thoắt hiện, khiến cho quân Nguyên rất vất vả lần theo hình tích mà đối phó. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản cầm một đạo gia binh hơn 1.000 quân, với lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá Cường Địch, Báo Hoàng Ân” đi tìm giặc mà đánh. Đội quân của Trần Quốc Toản có các chiến thuyền, hoạt động ở vùng sông Hồng, phía nam Thăng Long.Vị tướng trẻ bấy giờ chỉ mới tròn 18 tuổi, liên tiếp lập được những chiến công, vang danh trong quân là một hổ tướng. Hình tượng người anh hùng trẻ tuổi đã trở thành huyền thoại trong tâm thức người Việt bao đời nay.

Một cuộc chiến đấu lớn của dân tộc là tập hợp từ những cuộc chiến đấu nhỏ, từ mọi tầng lớp nhân dân. Bấy giờ, thế giặc vẫn còn rất mạnh, nhưng quân dân ta càng đánh càng mạnh hơn. Đầu tháng 3/1285, quân Đại Việt chia làm hai khối lớn, bắt đầu có những hoạt động để kiểm soát lại những vùng đã bị chiếm đóng. Khối quân thứ nhất do vua Trần Nhân Tông, Thượng hoàng Trần Thánh Tông trực tiếp chỉ huy trấn giữ vùng Thiên Trường, Trường Yên, chuẩn bị đánh quân của Thoát Hoan từ phía nam lên.

Khối quân thứ hai do Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy, dẫn hơn 1.000 chiến thuyền ngược sông Thái Bình tập kích tái chiếm Vạn Kiếp. Dù rằng Thoát Hoan có quân đồn trú tại Vạn Kiếp nhưng hắn còn phải rải quân ở nhiều nơi khác nữa. Vậy nên, quân Nguyên tại Vạn Kiếp vẫn ít hơn quân của Hưng Đạo vương rất nhiều. Vì không kiểm soát được các ngã sông lớn dày đặc ở miền đông đồng bằng sông Hồng, quân Nguyên đã không thể biết rõ được cuộc hành quân của Hưng Đạo vương, dẫn đến việc không thể điều quân tiếp viện cho Vạn Kiếp. Hưng Đạo vương nhanh chóng tiêu diệt quân Nguyên đồn trú, chiếm lại Vạn Kiếp một cách dễ dàng. Từ căn cứ Vạn Kiếp, đại quân phối hợp với các đội quân vùng biên giới đông bắc uy hiếp đường vận lương của địch. Nguyễn Thế Lộc thừa thế đánh chiếm trại Vĩnh Bình, khiến cho tuyến hậu cần của quân Nguyên đứng trước nguy cơ bị cắt đứt hoàn toàn.

Thoát Hoan vẫn còn lực lượng rất đông và mạnh trong tay, nhưng việc để mất Vạn Kiếp đã làm bộ chỉ huy quân Nguyên bối rối. Quân Nguyên bấy giờ đã rơi vào thế gọng kìm mà Hưng Đạo vương tạo ra. A Lý Hải Nha soạn thư báo cáo về với Hốt Tất Liệt, xin thêm quân tiếp viện. Trong thư nói: “Ở hai xứ Thiên Trường và Trường Yên mà Trần Nhật Huyên trốn đến, binh lực lại tập hợp. Hưng Đạo vương tụ tập hơn một nghìn chiếc thuyền ở Vạn Kiếp, Nguyễn Lộc ở Vĩnh Bình, còn quan quân thì đi xa, đánh lâu ở lơ lửng quãng giữa, Toa Đô và Đường Ngột Đải thì đến không đúng kỳ hạn”. Một vấn đề lớn đặt ra đối với đội quân xâm lược là chúng phải lựa chọn một hướng tiến công.

Nếu quân Nguyên lựa chọn hướng về phía nam đánh với khối quân của vua Trần thì sau lưng chúng lại bị khối quân của Hưng Đạo vương uy hiếp và đứng trước nguy cơ bị cắt đứt hoàn toàn hậu cần, khiến chúng trở thành mấy chục vạn tên đói khát. Nếu chúng hướng về phía bắc để tấn công Hưng Đạo vương ở Vạn Kiếp thì lại sợ quân của vua Trần từ phía nam đánh lên. Đặc biệt là với lợi thế về sức cơ động của tàu thuyền, quân Đại Việt nắm quyền chủ động đánh hoặc rút. Thoát Hoan chỉ còn cách chia quân phòng giữ, chờ cho quân Đại Việt tấn công trước và chờ quân của Toa Đô từ phía nam tiến ra để phối hợp.
Bấy giờ mặt trận miền đồng bằng sông Hồng và phía bắc chống quân của Thoát Hoan diễn ra có phần khá thuận lợi. Nhưng ở phía nam vẫn còn một gọng kìm mạnh do Toa Đô cầm đầu đang tiến ra bắc. Cuộc chiến vẫn còn rất nhiều cam go, thử thách ở phía trước.

Quốc Huy

https://2.bp.blogspot.com/-XAQxi3mj9Xg/Wve8hXjQ-dI/AAAAAAABp7E/5TtX0LkGFJEDc4a_Iv2h2G54ycQH5Um4wCLcBGAs/s640/48.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 49

NGHỆ THUẬT HÀNH QUÂN CỦA NHÀ TRẦN
KHIẾN QUÂN NGUYÊN THẤT ĐIÊN BÁT ĐẢO


1.
Chiến dịch phản công thất bại

Gần như cùng lúc với quãng thời gian mà Thượng tướng Trần Quang Khải giao chiến với Toa Đô ở vùng Thanh Hoá thì ở vùng đồng bằng sông Hồng, vua Trần ráo riết chuẩn bị phản công nhằm vào khối quân của Thoát Hoan. Kế hoạch phản công này dựa trên những lợi thế mà quân ta có được lúc bấy giờ.

Lúc này, quân Nguyên không còn lợi thế binh lực tập trung nhưng ban đầu khi mới tiến sang. Do không thể bắt được đầu não, tiêu diệt lực lượng của quân Đại Việt nên địch buộc phải chuyển sang kế sách lâu dài. Quân Nguyên buộc phải dàn mỏng lực lượng chiếm đóng và bảo vệ các tuyến hậu cần, liên lạc khá vất vả mà vẫn không đảm bảo thông suốt trước sức tấn công của quân dân các địa phương nằm trên các tuyến đường mà địch đã tiến quân qua. Trong khi đó, quân Đại Việt vẫn gần như làm chủ hoàn toàn vùng sông nước ven biển phía đông đồng bằng sông Hồng. Quân ta có hậu cần đầy đủ với nhiều kho tàng đã được chuẩn bị từ trước rải rác khắp lãnh thổ.

Hưng Đạo vương đã đem một phần lực lượng lên phía bắc tái chiếm Vạn Kiếp, khiến cho quân Nguyên rơi vào thế “ở lơ lửng quãng giữa” như lời của A Lý Hải Nha tấu về với Nguyên chủ Hốt Tất Liệt. Quân Nguyên rơi vào thế bị động và đứng trước nguy cơ thiếu lương thực, thuốc men. Trước tình hình đó, vua Trần Nhân Tông quyết định tổ chức một chiến dịch phản công, xuất phát từ Thiên Trường, Trường Yên theo sông Hồng đánh lên, hòng phá tan quân của Thoát Hoan, tái chiếm lại kinh thành Thăng Long.

Chiến dịch phản công này của vua Trần đã có phần nóng vội, khi thời cơ chưa thực sự chín muồi. Mặc dù quân Nguyên dưới trướng Thoát Hoan đang trên đà suy yếu nhưng vẫn còn rất đông và mạnh, trong khi đó quân của Toa Đô lại đang thắng thế ở mặt trận Thanh Nghệ. Phát hiện sự chuyển quân của vua Trần, Thoát Hoan lập tức dồn quân để đối phó. Quân Đại Việt đánh quân Nguyên từ Thiên Trường đến Thiên Mạc thì đụng trận lớn với quân Nguyên ở khúc sông Đại Hoàng (nay thuộc Lý Nhân, Hà Nam) vào ngày 10.3.1285. Quân Nguyên còn mạnh và đang mong chờ đánh một trận lớn với quân đội chủ lực nhà Trần. Vì vậy mà chúng đánh rất hăng. Quân Đại Việt gặp bất lợi, vua Trần Nhân Tông lại phải hạ lệnh rút lui về Thiên Trường để tránh tổn thất lớn. Hưng Đạo vương đang đóng quân ở Vạn Kiếp thì hay tin vua Trần thất thế ở Đại Hoàng, bèn gấp rút bỏ Vạn Kiếp mà dẫn quân về Thiên Trường tiếp ứng. Thoát Hoan lần này rất sợ vồ hụt vua Trần như lần trước, hắn điều động toàn lực tổ chức một cuộc càn quét, truy đuổi vào khắp các vùng ven biển phía đông.

Toa Đô lúc này cũng từ nam tiến ra hội quân, đóng ở Trường Yên. Có thêm những lực lượng thuỷ quân tinh nhuệ từ cánh quân của Toa Đô, Thoát Hoan càng có thêm nhiều sức mạnh. Quân Nguyên gom phần lớn lực lượng tổ chức một cuộc tấn công tổng lực vào Thiên Trường, hòng phá nát căn cứ địa của quân Đại Việt, bắt giết vua và Thượng hoàng.

Hưng Đạo vương về đến Thiên Trường, hội quân với vua Trần rút từ sông Đại Hoàng về đây. Bấy giờ binh thuyền bị hao tổn, sĩ khí xuống thấp. Hưng Đạo vương cùng vua Trần bàn nhau tổ chức một chiến dịch nghi binh và rút lui để đối phó với đòn tấn công của Thoát Hoan. Một loạt cuộc hành quân theo dọc ven biển đã khiến cho Thoát Hoan chẳng còn biết đâu mà tìm vua tôi nhà Trần.
2.
Cuộc trốn tìm, rượt đuổi trên vùng ven biển

Bắt đầu chiến dịch nghi binh – rút lui khi Thoát Hoan đánh xuống Thiên Trường, quân đội và triều đình Đại Việt đều xuống thuyền rút ra biển theo cửa Giao Hải (cửa biển Giao Thuỷ, Nam Định ngày nay). Thoát Hoan đuổi đến đây thì mất dấu vua Trần, hắn dùng thuỷ quân dò xét nhưng cũng chẳng thấy tăm hơi.Trong khi đó, vua Trần dẫn đại quân vượt biển ngược lên phía bắc, ghé vào Tam Trĩ Nguyên (thuộc Ba Chẽ, Quảng Ninh ngày nay).

Khi đại quân và triều đình nhà Trần rút khỏi Thiên Trường, một số quý tộc và quan lại cao cấp đã hèn nhát ra hàng quân Nguyên. Đứng đầu là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc. Dưới Ích Tắc là Văn Chiêu hầu Trần Lộng, Văn Nghĩa hầu Trần Tú Hoãn cùng Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long. Bọn người này đem cả gia quyến ra hàng giặc. Riêng trường hợp của Trần Ích Tắc, hắn đã nuôi chí phản trắc từ ngay trước khi quân Nguyên sang xâm lược. Trần Ích Tắc luôn tự phụ tài cao, vì không được truyền ngôi mà sinh lòng đối kỵ. Trước kia hắn đã ngầm đưa thư cho khách buôn ở Vân Đồn nhờ gởi sang Nguyên xin quân Nguyên nam hạ. Nay Ích Tắc dẫn gia quyến hàng giặc để mong được làm “An Nam Quốc Vương” sau khi quân Nguyên thôn tính Đại Việt.

Mất dấu vua Trần, Thoát Hoan điều động các đội thuỷ quân lùng sục khắp một vùng ven biển rộng lớn từ Trường Yên (thuộc Ninh Bình ngày nay) đến tận các vùng biển thuộc Khâm, Liêm (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay). Tả thừa Lý Hằng, Hữu thừa Khoan Triệt cùng các tướng Giảo Kỳ, Đường Ngột Đải được giao phó trách nhiệm lùng bắt vua Trần. Lần này, Hưng Đạo vương cùng vua Trần quyết ém quân ở vùng Hải Đông (Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương ngày nay) không giao chiến, để chờ cho thời cơ thật chín muồi. Một đoàn nghi binh dùng thuyền ngự bỏ trống đi ngược lên phía bắc, ra cửa biển Ngọc Sơn (thuộc Móng Cái, Quảng Ninh ngày nay) để tiếp tục đánh lừa quân Nguyên. Trong khi đó, ngày 7.4.1285 vua Trần cùng toàn quân bỏ thuyền ở Tam Trĩ, hành quân bộ đến bến Thuỷ Chú (thuộc Yên Hưng, Quảng Ninh). Tại đây, đã có sẵn một đoàn thuyền lớn mà quân ta được chuẩn bị từ trước. Quan quân xuống thuyền đi ra cửa biển Nam Triệu rồi vượt biển đi vòng một mạch vào Thanh Hoá.

Do trúng kế nghi binh của quân ta, các cách quân Nguyên phải mất rất nhiều thời gian để tìm ra tung tích của vua Trần. Khi thì có tin tức thuyền ngự vua Trần ra cửa Ngọc Sơn, tin tức khác lại báo quân ta đóng ở Tam Trĩ. Lý Hằng phải chia quân làm hai cánh, vừa ra Ngọc Sơn vừa vào Tam Trĩ. Tuy vậy thì quân Nguyên vẫn chậm chạp hơn quân Đại Việt rất nhiều. Phải đến ngày 15.4.1285 thì cánh thuỷ quân của Giảo Kỳ, Đường Ngột Đải chỉ huy mới đến vây Tam Trĩ. Lúc ấy thì vua Trần cùng toàn quân Đại Việt đã rời đó được tám ngày rồi. Dò biết quân ta bỏ thuyền lên bộ về Thuỷ Chú, quân Nguyên hành quân bộ ba ngày ba đêm đuổi theo. Đám truy binh mệt mỏi xác xơ vì hành quân liên tục không ngơi nghỉ nhưng khi đến Thuỷ Chú thì vua Trần cùng toàn quân Đại Việt đã dong thuyền đi rất xa rồi.

Những gì quân Nguyên thu hoạch được chỉ là đội thuyền chiến mà quân Đại Việt bỏ lại ở Tam Trĩ. Thuỷ quân chuyên nghiệp thì ít mà thuyền cướp được thì quá nhiều, trong khi sở trường của quân Nguyên lại là tác chiến trên bộ nên thuyền bè cũng trở nên thừa thải. Quân Nguyên phải đánh chìm bớt thuyền đi, chọn lại thuyền tốt để dùng.
3.
Khích lệ lòng quân

Sau một cuộc trốn tìm, rượt đuổi đầy kịch tính với quân địch, cuối cùng quân đội và triều đình Đại Việt cũng loại bỏ hoàn toàn sự truy đuổi của quân Nguyên để vượt biển hướng vào Thanh Hoá, bấy giờ là “đất trống” khi Toa Đô đã đi qua. Trong lúc vua và thượng hoàng phiêu bạt khắp nơi, chịu nhiều cực khổ thì Hưng Đạo vương luôn theo sát bên cạnh để hầu mưu lược. Hưng Đạo vương có dùng một chiếc gậy gỗ đầu bọc sắt nhọn để tiện đi lại ở địa hình phức tạp và dùng làm vũ khí. Trong triều thấy gậy gỗ đầu bọc sắt trông rất nhiều sát khí, vài người có ý nghi kỵ vị Quốc Công Tiết Chế. Hưng Đạo vương dò biết ý, bèn bỏ luôn cái đầu gậy bọc sắt ấy, chỉ gậy gỗ mà dùng. Mọi người thấy thế đều nhẹ lòng. Trên đường vượt biển vào nam, vua Trần Nhân Tông cho người khắc trên đuôi thuyền ngự hai câu thơ:

Cối Kê hữu sự nhân vi kỷ
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh

Tạm dịch:
Chuyện cũ Cối Kê người nên nhớ
Hoan Diễn vẫn còn mười vạn quân

Ý thơ mượn điển tích Việt Vương Câu Tiễn thời Xuân Thu bị nước Ngô vây ở Cối Kê, chỉ còn có 5.000 quân trong tay nhưng về sau lật ngược được tình thế, chiếm luôn cả nước Ngô. Vua Trần muốn dùng điển tích này để nhắc nhở tướng sĩ không vì sự thất thế nhất thời mà nản chí, vì dù để mất vùng đồng bằng trung châu thì vẫn còn vùng Hoan, Diễn (chỉ vùng Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) với 10 vạn quân còn lại. Quan quân sau những cuộc hành quân tránh giặc cũng đã thấm mệt, được sự khích lệ của vua Trần nên vững lòng hơn trước thử thách. Đó là cái hay trong cách dùng binh thời Trần. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vua Trần và các tướng lĩnh cao cấp luôn biết cách giữ cho sĩ khí dâng cao.

Quân Đại Việt khó nhọc đã đành, quân Nguyên cũng chẳng khá hơn sau những chặng đường dài truy đuổi trong mệt nhọc và vô vọng. Thoát Hoan dốc toàn lực truy kích vua Trần, tuy trong nhất thời có thể chiếm thế thượng phong nhưng cái giá là hắn đã đặt quân tướng của mình vào một ván cờ mạo hiểm. Khi quân Nguyên dồn lực lượng đánh vào Thiên Trường và truy đuổi dài ngày mà không có được chiến thắng quyết định, tuyến hậu cần của chúng càng bị đánh phá ác liệt. Tại vùng biên giới Lạng Giang, quân dân vùng biên ải đã tổ chức nhiều trận mai phục cướp phá lương thực của giặc trên đường vận chuyển từ nước Nguyên sang. Mất đi một lượng đáng kể lương thực tiếp tế vốn đã hạn hẹp từ nước Nguyên sang, quân Nguyên lại mất đi nguồn lương thực có được nhờ cướp bóc trong dân do phải dồn quân đánh lớn và sự chống cự quyết liệt của dân chúng. Từ đây, quân Nguyên phải chính thức đối mặt với một khó khăn to lớn mà Hưng Đạo vương đã làm nhiều cách để chúng trước sau cũng phải gặp phải. Đó là chính là tình trạng đói khát, sự mệt mỏi và dịch bệnh bùng phát trong quân Nguyên do không quen thuỷ thổ.

Quốc Huy

//

" alt="

//

" loading="lazy" />

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 50

DÙNG BINH PHÁP XƯA, NHÀ TRẦN KHIẾN
QUÂN NGUYÊN ĐÓI KHÁT, HOẢNG LOẠN


Trong chiến sự Đại Việt – Nguyên Mông, quân xâm lược tuy nhọc nhằn nhưng có sức mạnh vượt trội cả về quân số lẫn kinh nghiệm chinh chiến. Còn quân Đại Việt tuy có cái thế nhàn hạ nhưng phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã kiên trì theo đuổi một chiến lược lâu dài, buộc quân Nguyên phải sa lầy vào một thế trận dằn co dai dẳng, đa chiến tuyến. Khi đó, năng lực hậu cần của quân Nguyên sẽ bị thử thách và chúng sẽ phải dàn quân đối phó trên một chiến trường rộng lớn dẫn đến mất lợi thế binh lực tập trung.
1.
Quân Nguyên sa lầy

Sau những cuộc truy đuổi rầm rộ ở vùng ven biển phía đông bắc Đại Việt, quân Nguyên một lần nữa vồ hụt vào khoảng trống. Đường Ngột Đải dẫn thuỷ quân Nguyên lùng sục vua Trần trên khắp một vùng biển rộng lớn một cách vô vọng. Lúc này, cả hai cánh quân của Thoát Hoan và Toa Đô đều đã cạn lương thực. Thoát Hoan không muốn cho Toa Đô hội quân vì sợ không chu cấp nổi lương thực. Y hạ lệnh cho Toa Đô đóng quân ở lộ Trường Yên để “tự kiếm lương ăn”. Mệnh lệnh này quả thực làm cho toàn bộ khối quân dưới trướng Toa Đô vô cùng thất vọng. Đội quân đã theo Toa Đô chinh chiến mấy năm ròng từ Chiêm Thành đến vùng trung tâm nước Đại Việt, chịu trăm ngàn gian khổ, lập được không ít công lao lại bị chủ soái Thoát Hoan bỏ mặc tự kiếm lương thực. Vì điều này mà tinh thần của binh lính dưới trướng Toa Đô xuống cực thấp. Thực hiện lệnh của Thoát Hoan, Toa Đô cho quân thả sức cướp bóc vô cùng tàn bạo, tiếp tục gây nhiều nợ máu đối với nhân dân Đại Việt. Dù chúng cướp bóc như thế, cũng không đủ để nuôi quân.

Về phần khối đại quân của Thoát Hoan cũng chẳng khá hơn khối quân của Toa Đô hơn là bao. Hắn không cho Toa Đô hội quân cũng là do không còn giải pháp nào khác. Lương thảo, khí giới của quân Nguyên trên tuyến đường vận chuyển từ trong nước chúng sang đến đại doanh của Thoát Hoan rất nhỏ giọt, lại bị đánh phá thường xuyên nên không đủ để cung cấp cho mấy chục vạn quân. Các đồn, trạm, đường hậu cần, đường liên lạc của quân Nguyên trở thành mục tiêu cho các toán quân nhỏ của Đại Việt thường xuyên tập kích, quấy rối. Cuộc xâm lược Đại Việt của quân Nguyên kể từ khi chúng vượt qua biên giới cho đến khi quân Đại Việt rút lui về Thanh Hoá đã kéo dài gần 3 tháng. Bấy giờ là vào cuối xuân đầu hạ, tiết trời dần chuyển sang oi ức. Quân Nguyên ngoài việc chịu khổ sở vì thiếu đói cũng bắt đầu xuống sức do không quen thuỷ thổ.

Sau khi chiếm được Thiên Trường, tả thừa Lý Hằng đã bàn với Thoát Hoan khuyên nên chia quân đóng giữ tại đây, tích lương xây thành để chiếm đóng lâu dài, đề phòng vua Trần trở lại khôi phục căn cứ địa. Tuy nhiên ý kiến này đã bị các tướng khác phản đối và bị chủ soái Thoát Hoan bác bỏ vì lo ngại càng chia quân nhiều nơi càng dàn mỏng lực lượng, dễ bị quân Đại Việt tập kích. Bấy giờ quân Nguyên đã không còn điều kiện để dàn quân kiểm soát nhiều vùng như trước, nhưng cũng không thể dồn ứa lại một chỗ để chịu đói. Thoát Hoan chia khối quân của mình thành một chuỗi đồn trại lớn nhỏ kéo dài từ Thăng Long đến các vùng Thiên Mạc, Khoái Châu nằm dọc theo sông Hồng với các đồn trại lớn là Chương Dương (thuộc Thường Tín, Hà Nội), Hàm Tử, Tây Kết (thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), A Lỗ (ngã ba sông Luộc giáp với sông Hồng, thuộc thành phố Hưng Yên ngày nay)… Mục đích là để vừa có thể toả ra cướp bóc, vừa có thể ứng cứu cho nhau khi bị tấn công. Thoát Hoan đóng đại doanh ở Thăng Long chỉ huy toàn quân xâm lược.
2.
Vua Trần ở Thanh Hoá

Khi Toa Đô tiến ra bắc hội quân với Thoát Hoan thì các lộ từ Thanh Hoá, Diễn Châu đến Nghệ An, Bố Chính, Thuận Hoá trở thành những vùng vắng bóng quân Nguyên. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã nắm được điều đó, khéo léo thực hiện một chiến dịch nghi binh, rút lui tài tình để đưa toàn quân vào đóng tại Thanh Hoá. Vào đến đây, triều đình và đại quân tạm thời được an toàn, có thời gian củng cố lại lực lượng, đồng thời tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi sự suy kiệt của quân địch.Quân Đại Việt đóng gần mặt biển, chia quân đóng giữ các chỗ hiểm yếu để phòng quân Nguyên tấn công.

Vài ngày sau khi vua Trần đem quân vào Thanh Hoá rồi, Toa Đô mới dò biết được tung tích quân Đại Việt. Y bèn báo lên chủ soái Thoát Hoan. Nắm được tin tức, Thoát Hoan phái Ô Mã Nhi đem 60 chiến thuyền, 1.300 quân thuỷ phối hợp cùng khối quân của Toa Đô quay trở lại Thanh Hoá để tấn công quân Đại Việt. Lúc này quân của Toa Đô đã hết sức suy kiệt, chán nản vì thiếu thốn lương thực và những chặng đường hành quân dài ngày, khổ sở. Binh lính ở Trường Yên ì ạch kéo xuống Thanh Hoá. Tại đây, quân Nguyên gặp phải sự kháng cự của Thượng tướng thái sư – Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Lần này với thế và lực mới, Chiêu Minh vương đã nắm được ưu thế trên chiến trường. Trong tháng 4.1285, Toa Đô và Ô Mã Nhi giao chiến với Chiêu Minh vương Trần Quang Khải nhiều trận đều không thắng nổi.

Càng giằng co ở Thanh Hoá lâu ngày, Toa Đô và Ô Mã Nhi càng tuyệt vọng. Một mặt, quân của Chiêu Minh vương lấy thế quân nhàn hạ mà kiên trì phòng thủ, chắn ngang đường tiến quân của chúng, không sao đánh hạ nổi. Mặt khác, vùng Thanh Hoá bấy giờ thưa thớt hoang vu, lại ở quá xa hậu phương dẫn đến tình trạng đã đói khát trong quân của Toa Đô càng thêm trầm trọng. Không thể làm được gì hơn, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi dẫn quân ngược ra bắc, đóng tại bến Tây Kết. Chỉ tại vùng trung tâm đồng bằng sông Hồng quân Nguyên mới có hy vọng cướp bóc lương thực trong dân. Nhưng điều đó là không hề dễ dàng với chúng vì hầu hết nhân dân thực hiện triệt để “vườn không nhà trống” và chống trả rất quyết liệt khi gặp phải quân giặc cướp bóc. Chiêu Minh vương không vội truy kích Toa Đô, bỏ mặc cho quân Nguyên tự suy yếu dần vì đói khát, bệnh tật.

Với sự che chắn vô cùng tốt của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, triều đình nhà Trần và toàn quân Đại Việt có được sự an toàn tuyệt đối tại Thanh Hoá, yên tâm dưỡng sức, tích luỹ lương thực. Cũng nhờ vào thời bình kinh tế phát triển, có chuẩn bị kho tàng từ trước chiến tranh, quân Đại Việt có thể đi khắp nơi trong nước mà không bị thiếu thốn hậu cần. Thêm vào đó, nhân dân cả nước luôn sẵn sàng đóng góp để nuôi quân. Theo như lời thơ của vua Trần Nhân Tông là “Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” (có thể là quân số mà vua Trần nói phao lên, thực tế chưa chắc đến 10 vạn), cộng thêm binh lực còn lại từ đồng bằng sông Hồng rút vào đây thì ước chừng quân chủ lực của Đại Việt vẫn còn khoảng hơn 20 vạn quân. Về số quân chủ lực, Đại Việt vẫn ít hơn quân Nguyên. Nhưng bấy giờ thế quân Đại Việt ngày càng lên cao, trong khi quân địch ngày càng yếu đi. Càng kéo dài thời gian, Thiên thời càng ủng hộ quân dân Đại Việt.

Quốc Huy

https://2.bp.blogspot.com/-ClLx3VJ_aJw/WwDt52rit2I/AAAAAAABqp0/1RyGIjrXVI4sbZsKDZqqJwmkXAV6HGGpgCLcBGAs/s640/49.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 51

CÁI KẾT ĐẮNG CỦA SỐ PHẬN VIỆT GIAN
TRONG CUỘC CHIẾN KHÁNG NGUYÊN


1.
Số phận những kẻ phản quốc

Đối lập với khí thế chống giặc của tuyệt đại đa số nhân dân, một số quý tộc, quan lại nhà Trần trước đã theo hàng quân Nguyên. Những kẻ đầu hàng có nhiều lý do khác nhau. Đa phần là do sợ hãi trước thế mạnh của giặc. Trong số đó có hai trường hợp đáng chê trách hơn cả là Trần Kiện và Trần Ích Tắc. Trần Kiện vì tư thù và bất mãn triều đình mà hàng giặc, nhiều lần chỉ điểm cho Toa Đô khiến quân Đại Việt bị tổn thất lớn. Trần Ích Tắc thì luôn nuôi mộng làm “An Nam Quốc Vương”, nên đem gia quyến đầu hàng Thoát Hoan nhân lúc vua Trần rút quân khỏi Thiên Trường. Điểm chung của đám hàng thần này là chúng đều đã sai lầm, và phải trả giá cho sai lầm đó.

Tháng 5.1285, Thoát Hoan sai tướng Minh Lý Tích Ban (Manglai Siban) dẫn một đoàn quân hộ tống đám hàng thần về nước Nguyên. Trong đám này có cả Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Trần Tú Hoãn, Trần Văn Lộng, Phạm Cự Địa… Đoàn quân Nguyên đến trại Ma Lục (thuộc Chi Lăng, Lạng Sơn ngày nay) thì phục binh nổi lên đánh giết dữ dội. Chỉ huy đội phục binh này không ai khác chính là Quản quân Nguyễn Thế Lộc cùng tù trưởng Nguyễn Lĩnh, hai vị tù trưởng đã nhiều phen làm quân địch khiếp vía ở vùng Lạng Giang, cướp phá rất nhiều quân lương của địch.

Trong quân của Nguyễn Thế Lộc gồm cả quân người thiểu số và thân binh của Hưng Đạo vương gửi lên sát cánh cùng chiến đấu với quân dân vùng biên giới. Quân Nguyên bị đánh tan tác, bị giết đến gần một nửa lực lượng. Từ quân lính đến những tên Việt gian phản quốc đều cắm đầu bỏ chạy về phương bắc. Quân ta thu được rất nhiều quân lương, vật dụng. Trong đám loạn quân, gia tướng của Hưng Đạo vương là Nguyễn Địa Lô dùng cung tên bắn trúng Trần Kiện, kết liễu cuộc đời tên quý tộc phản trắc này. Thuộc hạ của Kiện là Lê Trắc ôm xác chủ chạy đến Khâu Ôn mà chôn cất ở đó. Kết cục của một quý tộc cao cấp của nhà Trần thê thảm không chỉ ở việc bỏ xác nơi hoang địa, mà đời đời còn bị sử sách nguyền rủa.

Lê Trắc sau làm quan cho nước Nguyên, soạn cuốn sử An Nam Chí Lược, tự coi mình là người Nguyên. Cuốn sách này được các sử gia Việt Nam dùng với thái độ thận trọng và xếp vào loại sách của “học giả nước ngoài”. Trần Ích Tắc tuy không phải chịu số phận như Trần Kiện, lại được cất nhắc làm quan lớn trong triều đình nước Nguyên nhưng trong lòng luôn chịu nhục. Trần Ích Tắc làm quan ở vùng Hồ Quảng, nhiều lần chạm mặt sứ giả Đại Việt và có lần bị sứ giả Đại Việt làm cho bẽ mặt khi nhắc lại hành động đầu hàng giặc. Vì thế, về sau khi sứ giả Đại Việt sang Ích Tắc thường tránh mặt.

Trần Ích Tắc đã làm quan cho Nguyên triều thăng đến chức Hồ Quảng Bình chương chính sự, khi chết được truy phong tước Trung Ý vương. Tuy vậy những danh vị này cũng không là gì so với danh vị của Trần Ích Tắc khi còn ở Đại Việt, vốn là một thân vương uy vọng, môn khách, học trò đầy nhà.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép về Trần Ích Tắc với sự mỉa mai: “… người Nguyên vào cướp, Ích Tắc xin hàng chúng để mong được làm vua. Người Nguyên phong làm An Nam Quốc Vương. Sau khi quân Nguyên thất bại, Ích Tắc trong lòng hổ thẹn, chết ở đất Bắc”.

Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần đã bình rằng: “Từng nghe nói đến chết trận, chết bệnh, chết già, chết đói, hoặc giả là chết vì uất ức, đến đây lại có thêm cái chết vì hổ thẹn…”
2.
Chờ đợi thiên thời

Trong chiến lược chung mà vị Quốc công tiết chế - Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cùng triều đình đã định sẵn từ trước cuộc chiến tranh, quân dân Đại Việt sẵn sàng cùng kẻ xâm lược bước vào một cuộc chiến dài hơi. Mỗi trận chiến đều liệu sẵn đường tiến thoát, giúp bảo toàn lực lượng nếu không thể thủ thắng trước sức mạnh của địch. Chờ cho quân địch mệt mỏi, suy yếu rồi mới liệu đường phản công. Quân dân Đại Việt đã không chiến đấu theo những cách thông thường mà quân Mông Nguyên từng gặp. Cuộc chiến tiêu hao, đa chiến tuyến đã tạo nên một sức mạnh phi thường. Đó là một chiến lược khôn ngoan.

Để hiểu được giá trị của chiến lược này, chúng ta thử so sánh sơ lược với những cuộc chiến của Mông Nguyên với các đế chế hùng mạnh ở Trung Á và Đông Á. Đế chế Hoa Thích Tử Mô (Khwarezm), đế chế Tây Hạ, Kim, Tống… đều là những nước có lực lượng quân đội đông đảo hơn Đại Việt nhưng đều chịu thất bại bởi sa vào chiến lược dàn quân quy mô lớn, dốc túi đánh những trận một mất một còn với quân Mông Nguyên. Đến khi không địch nổi kỵ binh Mông Nguyên trong các trận dàn quân quy mô lớn, các đội quân chuyển sang chiến thuật thủ thành một cách bị động, thiếu các phương án dự phòng. Thành cao hào sâu tưởng là lợi thế, hoá ra trở thành những nơi gom quân lại cho vó ngựa Nguyên Mông thi hành chiến thuật Vây Thành Diệt Viện.

Cũng cần nói rằng, quân Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần này có lẽ hùng mạnh ngoài cả dự kiến của triều đình nhà Trần. Không chỉ vượt trội với kỵ binh người Mông Cổ, Thoát Hoan và Toa Đô còn có trong tay những lực lượng lục quân người Kim, người Tống đông và thiện chiến. Trong khi kỵ binh du mục dũng mãnh trên những nơi đất bằng trống trải, thì Hán quân (quân người nước Kim cũ) và quân Tân phụ (quân người Tống cũ) lại có ưu điểm là thích nghi tốt với điều kiện chiến trường phương nam. Vì vậy, kể cả với việc phải đụng độ với quân Đại Việt trong các trận thuỷ chiến hoặc các trận chiến thuỷ bộ kết hợp là sở trường của người Việt, quân Nguyên cũng thể hiện một sức mạnh kinh hồn.

Điều đó đã gây cho quân Đại Việt không ít khó khăn, nguy hiểm. Tuy nhiên, bằng tài trí của các bậc tướng soái đầu não triều đình, bằng sự đồng lòng chung sức của đại đa số quân dân cả nước, quân ta đã vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc chiến. Sau cuộc phản công thất bại của vua Trần, quân Đại Việt càng cẩn trọng hơn trong hành động. Quân ta thực hiện triệt để hơn chiến lược kéo dài thời gian, chờ cho thời cơ thật chín muồi, khi mà quân địch suy yếu đến tột độ rồi mới tung đòn quyết định.

Bấy giờ đại quân nhà Trần đóng ở Thanh Hoá, có quân của Thượng tướng – Chiêu Minh vương Trần Quang Khải chắn giữ đường như một tấm khiên không thể công phá. Toàn quân Đại Việt an tâm nghỉ ngơi dưỡng sức. Trái lại, quân Nguyên càng ở lâu ngày trên đất Đại Việt, càng chịu khổ sở do thiếu thốn hậu cần và không hợp thuỷ thổ. Nắng mưa mùa hè đổ xuống khiến cho những quân Nguyên ngã bệnh hàng loạt. Thêm vào đó là những trận lụt tràn vào doanh trại, làm cho chiến cụ quân Nguyên bị hư hại và làm lây lan dịch bệnh. Tình trạng này kéo dài đến cuối tháng 4, đầu tháng 5.1285, khiến cho đạo hùng binh của Thoát Hoan trở thành một đám quân sĩ ốm đói bệnh hoạn.

Chẳng cần phải đánh lớn, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã mượn sức trời để làm suy yếu quân địch. Thừa thế quân địch xuống sức, các toán dân quân làng xã, các đạo quân người thiểu số càng ra sức ngày đêm tập kích quân Nguyên. Địch hầu như mất đi khả năng tổ chức những cuộc hành quân tấn công quy mô lớn như thời gian đầu cuộc chiến mà phải căng sức kiểm soát vùng chiếm đóng, bảo vệ tuyến hậu cần, liên lạc.

Xét thấy thời cơ đã đến, triều đình nhà Trần bàn nhau tổ chức một cuộc tổng tấn công quyết định. Vua Trần Nhân Tông triệu tập quần thần bàn rằng: “Bọn giặc nhiều năm phải đi xa, lương thảo chuyên chở hàng vạn dặm, thế tất mỏi mệt. Lấy nhàn chống mệt, trước hết hãy làm chúng nhụt chí, thì ắt là đánh bại được chúng” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).

Quốc Huy

https://4.bp.blogspot.com/-04Wk66aePS4/WxMv9AC4AMI/AAAAAAABrio/0TxNsK35a9MuTAFtuNDNpElCdsptN2FBwCLcBGAs/s640/51.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] ... ›Trang sau »Trang cuối