屏山疊翠

籠蔥草木自岧嶢,
疊嶺屏開紫翠嬌。
雲靄匝光山勢近,
雨餘夾麗物華饒。
老同天地鐘靈久,
榮共煙霞屬望遙。
敢道河仙風景異,
嵐堆鬱鬱樹蕭蕭。

 

Bình san điệp thuý

Lung thông thảo mộc tự thiều nghiêu,
Điệp lĩnh bình khai tử thuý kiều.
Vân ái táp quang sơn thế cận,
Vũ dư giáp lệ vật hoa nhiêu.
Lão đồng thiên địa chung linh cửu,
Vinh cộng yên hà chúc vọng dao.
Cảm đạo Hà Tiên phong cảnh dị,
Lam đồi uất uất thụ tiêu tiêu.

 

Dịch nghĩa

Cây cỏ rậm rợp tự vượt lên cao chót vót,
Núi chồng chất, như tấm bình phong mở ra một màu tím xanh, mềm mại.
Mây đùn vây quanh một màu sáng sủa rực rỡ, thế núi gần gặn rõ ràng,
Mưa tàn rồi còn rớt lại, ghép thêm vẻ xinh đẹp kiều lệ, làm cho cảnh sắc thêm phong phú, thêm rườm rà.
Già lâu như tuổi trời đất chung đúc nên khí linh tú trường cửu,
Phồn thịnh góp với mây khói nắng ráng, hi vọng xa xôi.
Đâu dám bảo rằng phong cảnh Hà Tiên có gì lạ lùng khác thường,
Nhưng mà chỉ một màu lam êm ái tĩnh mịch thôi cũng đủ.


Bản dịch nghĩa của Đông Hồ.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Đông Hồ

Cây xanh ngăn ngắt vút cao cao,
Ngọn dựng bình giăng đẹp mĩ miều.
Mây sáng vây quanh hình núi rõ,
Mưa tàn thêm nổi bóng non theo.
Đất trời bền vững nền linh tú,
Mây khói vời xa nỗi ước ao.
Danh thắng Hà Tiên đâu dám bảo,
Cây ngàn mơn mởn biếc xanh gieo.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Giới thiệu thêm Bình San điệp thúy

Bình San điệp thúy (chữ Hán: 屏山疊翠) có nghĩa Núi dựng một màu xanh, là tên hai bài thơ của Mạc Thiên Tứ; một bằng chữ Hán được xếp trong tập Hà Tiên thập vịnh được khắc in năm 1737; một bằng chữ Nôm được xếp trong tập Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh[1].
Cả hai bài đều miêu tả cảnh đẹp của núi Bình San hay Bình Sơn, một trong mười thắng cảnh của đất Hà Tiên (Việt Nam) xưa. Nay núi thuộc phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

Bình San là một dãy núi như bức bình phong che chắn gần hết mặt phía Tây thành Hà Tiên xưa. Điệp Thuý có nghĩa là ngút ngàn, lớp lớp một màu xanh trập trùng.[2] Núi này còn có tên gọi là núi Lăng, vì trên núi có lăng mộ Mạc Cửu, con cháu họ Mạc và các vị quan văn võ khác.

Giới thiệu thơ:
Bài chữ Hán (xem bên trên)

Bài chữ Nôm
Đây là một khúc vịnh 30 câu được Mạc Thiên Tứ viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát gián thất (Song thất lục bát), mà cuối đoạn gắn liền với một bài thơ bát cú.
Bài thơ bát cú như sau:

Một bước càng thêm một thú yêu,
Lằn cây vít đá vẽ hay thêu?
Mây tòng khói liễu, chồng rồi chập,
Đàn suối ca chim, thấp lại cao.
Ngọc luật Trâu ông chăng phải trổi,
Ngòi sương Ma Cật đã thua nhiều.
Đến đây mới biết lâm tuyền quới,
Dám trách Sào Do lánh Đế Nghiêu.[3]

Bình Sơn điệp thúy là cảnh thứ hai trong Hà Tiên thập cảnh. Đầu bài này sóng đôi với đầu bài thứ nhất là Kim Dữ lan đào. Cảnh Kim Dữ là địa điểm chiến lược, thì cảnh Bình San là chốn an nhàn, thanh tú.

Đề cập bài luật Nôm, trong Văn học Hà Tiên do Đông Hồ biên soạn, có đoạn phân tích đại để như sau:
Hai câu đầu: tả vẻ đẹp thanh tú của cảnh, với lằn cây vết đá như vẽ như thêu. Câu ba & bốn: tả mây tùng, khói liễu, đàn suối, chim ca. Ở đây, tác giả khéo dùng cụm từ: chồng rồi chập để diễn tả. Câu năm: thừa ý câu bốn, vì tác giả nghĩ rằng đã có khúc hòa tấu thiên nhiên rồi, thì cần gì phải nghe âm nhạc nhân tạo, dù là của Trâu ông (người âm luật học có tài) đi chăng nữa. Câu sáu: thừa ý câu hai & ba. Vì đã có lằn cây vết đá như vẽ như thêu, khói liễu mây tùng chồng chập thì cần chi phải nhìn tranh sơn thủy, dù là của danh họa Vương Duy. Câu bảy & tám: Tác giả kết luận rằng có Bình San, mới biết chốn lâm tuyền là quý; rồi mới hiểu vì sao Sao Phủ & Hứa Do từ chối ngôi vua.

Đối với bài Hán thi, trong sách trên cũng có phần phân tích, tóm lược như sau: Bốn câu đầu tả cảnh đẹp của núi Bình San. Câu năm & sáu: vừa tả khí thế bề lâu, vừa tự hào khí thế của mình cùng ý mong cầu sự nghiệp được vững bền như non núi. Câu bảy & tám: ý tác giả muốn nói, tuy là núi Bình San không thể sánh với những danh lam khác, nhưng mà một ngọn đồi nhỏ nhắn, một màu xanh nhẹ nhàng cũng đủ là một cảnh đặc biệt, có bản sắc riêng. Câu kết hô ứng với câu hai, nhắc lại lần nữa ý đầu bài, làm nổi rõ thêm màu sắc của ngàn xanh điệp thúy. [4]
Bùi Thuỵ Đào Nguyên, soạn.


Chú thích
1. Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh có sau Hà Tiên thập vịnh (1737), và tập thơ này chưa được khắc in. Bản hiện nay do thi sĩ Đông Hồ sưu tập được.
2. Thi sĩ Đông Hồ giải nghĩa từ chữ như sau: "Bình là tấm bình phong, sơn là núi, điệp là chồng chất nhiều lớp, thúy là màu xanh lông chim trả" (Văn học Hà Tiên, tr. 177).
3. Chép đúng theo Văn học Hà Tiên, do Đông Hồ biên soạn, Nxb Văn nghệ TP. HCM, 1999, tr. 160-162. Xem toàn bài thơ trong sách này.
Chú thích từ khó hiểu:
Ngọc luật: ống tiêu, ống sáo làm bằng ngọc.
Trâu ông: chưa khảo cứu được. Ma Cật tức Vương Duy.
Lâm tuyền: rừng và suối, dùng để chỉ cảnh suối rừng thanh u, tĩnh mịch.
Sào Do: cùng với Hứa Do là hai nhân vật cao sĩ thời xưa, vua Nghiêu nghe tiếng hiền đức, muốn nhường ngôi cho nhưng cả hai đều từ chối, bỏ đi ở ẩn (theo Đông Hồ, Văn học Hà Tiên, tr. 180).
4. Lược theo Văn học Hà Tiên, tr. 183-187.
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Bình phong xanh tím non chồng chất
Rậm rợp cỏ cây lên vượt cao,
Mây tụ vây quanh hình núi rõ,
Mưa tàn ghép vẻ đẹp tranh vào.
Tuổi trời đúc khí linh trường cửu,
Mây khói xa vời niềm ước ao.
Phong cảnh Hà Tiên đâu lạ quá,
Màu lam tĩnh mịch đủ thôi nào.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời