Dưới đây là các bài dịch của mai lăng. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 1 trang (7 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch (I) (Lý Ích): Bản dịch của Mai Lăng

Núi hồi cát trắng phau phau
Trăng ngoài thành Thụ bạc màu như sương
Sáo lau đâu thổi thê lương
Suốt đêm lính thú nhớ thương quê nhà


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Hoa thời biến du chư gia viên (Lục Du): Bản dịch của Mai Lăng

Mê đắm danh hoa ngỡ phát cuồng
Những e nắng gió phụ hồng hương
Canh khuya thầm khấn Thông Minh điện
Cho bóng xuân qua hộ hải đường


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Đằng Vương các tự (Vương Bột): Bản dịch của mai lăng

Trước Nam Xương sau Hồng Đô phủ,
Đối Ngũ Hồ hội tụ ba sông.
Nam Kinh chắn, Âu Việt thông,
Sao chia Dực Chẩn, đất vòng Hành Lư.
Đây cảnh sắc đẹp như thiên bảo,
Ánh rồng bay sao Đẩu sao Ngâu,
Địa linh nhân kiệt từ lâu,
Nhà trên Tử Trĩ, giường đâu Trần Phồn.
Đất Hùng Châu sương dồn móc dội,
Trang tuấn tài dong ruổi như sao.
Đài mương Di Hạ liền giao,
Yêu kiều khách chủ trải vào đông nam.
Đô đốc Diêm, đã nhàm tiếng tốt,
Hành quân xa, kích buộc nơ hồng.
Tân quan mô phạm Vũ công,
Áo khăn thân khoát, xe rông chỗ này.
Mười tuần rảnh, bạn tày mây rỡ,
Đón dặm ngàn, khắp chỗ bạn thân.
Phụng giao cao vượt đằng vân
Ấy tài họ Mạnh bút vần từ chương.
Lằng sét tía, màn sương trong tỏ,
Như tiết Vương, vũ khố quản cai.
Gia quân chúa tể cõi ngoài,
Đất thiêng, nhân vượt đường dài thử qua
Gặp tiệc đây, nào ta hay biết,
Tháng chin giờ, vào tiết ba thu.
Non chiều tía khí âm u,
Sắc trong hồ lạnh, rạch khu cạn dần.
Cảnh gò cao ngựa rần xe vượt,
Đất con vua tìm được quán tiên.
Cao xanh đài lớp lớp liền,
Vươn mình đâm thẳng tới miền không trung.
Bóng gác bay, linh lung đỏ ối,
Tỏa lửng lưng, chẳng tới đất bằng.
Bến cò bến vịt thênh thang,
Uốn quanh đảo lớn, kéo sang bãi cồn.
Hình thể núi, cung lan điện quế,
Mở cửa thêu, xem vẻ kèo hoa.
Núi đồng nhìn rộng bao la,
Sông đầm mắt mở thấy mà hãi sao.
Đầy mặt đất, biết bao cổng ngõ,
Ấy những nhà, chuông gõ bữa ãn,
Thuyền to thuyền nhỏ bến giăng,
Rồng vàng sẻ biếc trục lăn vẽ vời.
Cầu vồng biến, mưa thời đã dứt,
Thấu đến cùng, sáng rực đường mây.
Ráng chiều cò lẻ cùng bay,
Nước thu trời rộng là đây, một màu.
Chiều thuyền cá, lâu lâu vẳng hát,
Tiếng hát đưa phảng phát bến Bành.
Nhạn bầy sợ lạnh chao quanh,
Tiếng kêu đứt đoạn trên thành Hành Dương.
Buông vạt áo, lòng vương vấn lạ,
Hứng khởi lên nhàn hạ biết bao.
Tiếng vui gió mát lao xao,
Đứng yên mây trắng đọng vào lời ca.
Vườn Kỳ Viên, trúc pha xanh ngát,
Rượu xứ Bành, khí nhạt lan dần.
Rắc lên sông Nghiệp đỏ rần,
Rực lên tia sáng bút thần Lâm Xuyên.
Bốn điều tốt, cảnh thiên tâm sự,
Thảy điều lành, khách chủ hai ngôi.
Mắt trông khắp cả vùng trời,
Tột cùng vui vẻ, cuộc chơi cả ngày.
Trời cao thâm, đất dày tột bậc,
Vũ trụ hay, rằng thật vô ngần.
Vui đi buồn lại đến gần,
Đầy vơi mới biết có phần số thôi.
Ngóng Trường An , gầm trời lưng lửng,
Hướng về Ngô, mây lững thững bay.
Địa hình vô tận là đây,
Biển nam, sao bắc trụ bày trời xa.
Quan san hiểm, vượt qua không thể,
Ai xót thương, cho kẻ lạc miền.
Tha hương bèo bọt có duyên,
Cửa Vua không thấy, lầu Tuyên năm nào.
Không thời vận, đường bao trắc trở,
Phùng dễ già, Lý khó phong hầu.
Trường Sa Gỉa Nghị nằm lâu,
Chúa hiền vua thánh, phải đâu không còn.
Cảnh Lưu Hồng mỏi mòn Hải Khúc,
Há đâu là chẳng lúc minh quân,
Chẳng qua quân tử an bần,
Tận tường số mệnh, đạt nhân ấy mà.
Phải mạnh lên lúc đà có tuổi,
Nên hiểu lòng cho lão tóc sương.
Lúc cùng càng phải kiên cường,
Không nên làm lỡ bước đường mây xanh.
Uống suối Tham, tâm sanh sáng láng,
Nơi khốn cùng lại đáng hân hoan,
Biển bắc xa, cỡi gió sang,
Mé đông đã khuất, cành tang chẳng chầy.
Lòng báo quốc, Mạnh đây cao khiết,
Khóc đường cùng, Nguyễn tiết há dây.
Thư sinh ba thước Bột này,
Chẳng xin dây chắc, chẳng tày Chung Quân.
Vung đầu bút, bao lần mong ước,
Cỡi gió dài, Tông Xác mến thôi.
Trăm năm trâm hốt bỏ rồi,
Dặm muôn công việc hôm mai theo đà.
Cây báu Tạ, tuy là khôn sánh,
Cũng được luôn họ Mạnh cận kề.
Ngày sau, sân rảo bước về,
Chắp thêm lời đối, trọn bề Lý Ngư.
Áo long môn, sáng chừ vui gởi,
Chẳng gặp Dương, tiếc bỡi Lăng Vân.
Chung Kỳ gặp lại nên gần,
Tấu chơi Lưu Thủy còn ngần ngại chi.
Nơi danh thắng, dễ gì tồn tại,
Cuộc tiệc sang, có lại được đâu.
Lan Đình mai một từ lâu,
Còn vườn Tử Trạch ra màu gò hoang.
Lúc biệt ly, đôi hàng nay tặng,
Hân hạnh thay ! ơn nặng tiễn đưa.
Lên cao đặt phú làm thơ,
Đấy là công việc cậy nhờ quý ông.
Ngắn ý quê, hết lòng kính cẩn,
Phú một bài, bốn vận nên rồi.
Sông Phan rẩy nước xin mời,
Nghiêng mây từ đất tận trời biển đông.
Gác Đằng Vương, bên sông cao nóc,
Hết múa ca, tiếng ngọc phôi phai.
Cột hoa Nam Phố mây mai,
Rèm châu chiều cuốn, non đoài hạt rơi.
Trải mấy thu, sao dời vật đổi,
Mây ánh đầm, ngày dõi lửng lơ.
Gác đây, đế tử đâu giờ,
Trường giang vẫn chảy hững hờ ngoài hiên.

Ảnh đại diện

A Phòng cung phú (Đỗ Mục): Bản dịch của mai lăng

Diệt sáu vua, thu về bốn biển,
Núi Thục trơ, rõ hiện A Phòng.
Ba trăm dặm sát vầng hồng,
Ly Sơn bắc dựng tây vòng Hàm Dương.
Nhị xuyên tận chân tường tuôn nước,
Năm bước lầu, mười bước gác nhô.
Mái cong, hiên tựa màn tơ,
Chái giao liền chái, lượn vô địa hình.
Như mâm chậu, như bình như vựa,
Như nước nhoà, như tựa tổ ong.
Không mây sao lại có rồng,
Sao mưa chưa tạnh cầu vồng bắt qua.
Muôn nghìn nóc sao mà biết được,
Đường trên không cầu vượt sóng vây.
Thấp cao chẳng biết đông tây,
Ánh xuân đầm ấm vui vầy đài cung.
Tà vũ điện, lạnh lùng mưa gió,
Điện một ngày, khí khó giống nhau.
Vương phi cùng với công hầu,
Từ lầu đến điện xe mau về Tần.
Nhập cung Tần, tối đàn sáng hát,
Sao long lanh, gương bạc mở ra.
Tóc mai mây biếc loạn pha,
Sáp dầu chảy phí theo đà Vị dâng.
Tiêu lan cháy, khói vần móc gội,
Sấm sét kinh, xe vội qua cung.
Ầm ầm nghe chốn mịt mùng,
Dáng thân, vẻ mặt vô cùng thắm tươi.
Đứng xa xa, mong người ban hạnh,
Ba sáu năm, có cảnh lỡ làng.
Triệu Yên nhặt nhạnh kho tàng,
Nước Hàn nước Nguỵ đầy hàng kinh doanh.
Đất Tề Sở, tinh anh qui tụ,
Năm từng năm, lệ cũ mấy đời.
Thâu gôm tích luỹ của người,
Vật đem chất đống cao ngời như non.
Trong một sớm, chẳng còn giữ nổi,
Bao của kia, vụt khỏi chỗ này.
Châu vàng đỉnh ngọc là đây,
Mà như đất sạn rắc rây lề đường.
Người Tần vậy, ai thương ai xót!
Nghìn vạn người, chỉ một lòng thôi.
Ở Tần phù phiếm, than ôi!
Cuối cùng, ai cũng đến hồi nhớ quê.
Thật khó sao, tìm về của cải,
Tiêu dễ dàng, như vãi cát bùn.
Cột nhiều hơn cả nông dân,
Kèo rui hơn gái dựa dần khung tơ.
Đinh lấp lánh hơn bồ lúa thóc,
Ngói so le hơn vóc hơn là.
Lan can, bậc cửa tính ra,
Nhiều hơn thành quách gọp đà chin châu.
Đàn xự xáng, lời đâu hơn chợ,
Khiến người ta, giận có lời không.
Cái tâm của gã cuồng ngông,
Cửa Hàm Cốc dậy, bãi đồng quân hô.
Bó đuốc Sở, cháy khô cả đất,
Lục quốc kia, đâu mất vì Tần.
Than ôi! lục quốc tiêu dần,
Chẳng là lục quốc góp phần mà thôi!
Còn Tần mất, ấy hồi tự rã,
Đâu phải vì thiên hạ diệt Tần.
Lục quốc mà biết hợp quần,
Sức đem sáu nước, đánh Tần như pha.
Yêu sáu nước, Tần mà làm được,
Từ ba đời, truyền nước muôn đời.
Thương mình, Tần chửa mở lời,
Để cho hậu thế bao người xót vương.
Đời sau chẳng lấy làm gương,
Để đời sau nữa lại thương đời này.

Ảnh đại diện

Thu dạ hữu cảm (Chu Thục Chân): Bản dịch của Mai Lăng

Lệ chảy sưng tròng dạ nát tan
Sợ hoàng hôn hết lại hôn hoàng
Đêm thu vừa chớm mưa phơ phất
Bóng lẻ canh khuya ngọn nến tàn


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Ngộ đạo thi (Khắc Cần thiền sư): Bản dịch của Mai Lăng

Trướng gấm lò hương đã lịm dần
Say dìu nghiêng ngả chốn ca ngân
Phong lưu, cái đoạn thời trai trẻ
Biết ý chàng e chỉ mỹ nhân


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thái liên khúc (Lý Khang Thành): Bản dịch của Mai Lăng

Hái mau! Trăng xế, hừng sông
Cánh hồng trâm biếc xuân lồng bóng gương
Lá hoa sen đượm tà hương
Mây trôi gió thổi tận phương xa vời
Lẽ đâu chung mãi đường dài?
Quay thuyền tay nắm, lắc hoài không buông


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Trang trong tổng số 1 trang (7 bài trả lời)
[1]