Dưới đây là các bài dịch của Nguyễn Văn Tú. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 6 trang (51 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Tân Thành đạo trung (Tô Thức): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Gió đông biết lão muốn lên đèo
Thổi bạt đầu hiên giọt nước gieo
Đỉnh núi làn mây hình mũ chụp
Đầu cành vừng nhật mảnh chiêng treo
Trúc la mặt giậu, đào tươi tỉnh
Nước lắng dòng khe, liễu dập dìu
Xóm bản non tây chừng hởi dạ
Cơm cày măng nướng với rau xào


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Hàn thực (Vương Vũ Xứng): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Non Thương hàn thực tết năm nay
Núi đẹp trời xanh dạ những say
Bắt bướm, trẻ rình bên bụi rậm
Treo đu, người đánh dưới cành cây
Ruộng đồng xanh biếc mưa vừa tạnh
Xóm ngõ êm đềm khói vắng bay
Quan phó chớ buồn ngồi rảnh rỗi
Soạn bia tiền sẵn, rượu vơi đầy.

Ảnh đại diện

Vũ trung đăng Nhạc Dương lâu vọng Quân sơn kỳ 2 (Hoàng Đình Kiên): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Gió mưa tựa trước lan can
Mười hai mớ tóc Nga Hoàng như in
Chơi hồ tiếc chửa có phen
Cưỡi làn sóng bạc mà nhìn non xanh.

Ảnh đại diện

Vũ trung đăng Nhạc Dương lâu vọng Quân sơn kỳ 1 (Hoàng Đình Kiên): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Cõi hoang sống sót, tóc sương,
Về qua Diễm Dự, Cù Đường chơi vơi.
Giang nam chưa đến đã cười,
Đứng trên lầu Nhạc trông vời núi Quân.

Ảnh đại diện

Ái quất (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Yêu cúc cùng yêu sen,
Mỗi người ưa mỗi mặt.
Ta tính vốn yêu chung,
Đến già chỉ yêu quất.
Yêu vì cay không tê,
Yêu vì chua không gắt.
Yêu vì ngọt khác đường,
Yêu vì đắng khác mật.
Đã cho ta miếng ngon,
Lại có công dã tật.
Chẳng đua hương ngạt ngào,
Chẳng chen nơi sầm uất.
Vườn nhỏ từng sống quen,
Hơi đông khó lòng nạt.
Quân tử hẳn anh này!
Bọn thường khó đọ thật!

Ảnh đại diện

Đấu xảo ký văn (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Thi khéo bày ra kể có vàn,
Khéo mà lại mới, khéo vô ngần!
Kiền khôn ai đã khoan thành lỗ?
Vũ trụ qua đây mới thấy xuân.
Y phục nước ngoài coi rất lạ,
Chim muông rừng thẳm quí nào hơn.
Xứ tôi xoàng xĩnh không gì khéo,
Tượng gỗ cân đai gọi góp phần!

Ảnh đại diện

Hoàn Kiếm hồ (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Tư Thục, Nguyễn Văn Tú

Ba chục năm trời cảnh vắng ta,
Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhoà.
Tranh tre khắp chốn thành lầu gác,
Kèn súng thâu đêm, bặt trúc tơ.
Chiếc én tìm về quên lối cũ,
Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ.
Năm trăm năm cũ nơi văn vật,
Còn sót hòn non một nắm trơ!

Ảnh đại diện

Quá quận công Nguyễn Hữu Độ sinh từ hữu cảm (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Đền miếu thờ ai lộng lẫy thay!
Thờ ông “thứ nhất quận công” đây.
Ông còn, mũ áo hàng năm họp,
Không được dự buồn, được dự may.
Ông mất, mũ áo không họp nữa,
Lửa hương lạnh ngắt, lúa mọc đầy.
Có ông “thứ nhì không tên” đến
Sớm hôm chống gậy vào chốn này.
Trên đời suy thịnh thường như vậy,
Biết nay chín suối ông theo ai?

Ảnh đại diện

Hung niên kỳ 5 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Mùa qua đại hạn còn đâu?
Chiêm này gió lạnh khác nào thu xưa!
Cháo thừa trốc mả ăn chưa?
Rượu thừa đáy hũ say sưa được nào?
Vận nhà vận nước ngang nhau,
“Ông lớn”, “ông lơn” chung vào một tên.
Đói no chớ vội than phiền,
Gieo neo mới thấy vẹn tuyền cái “ta”!

Ảnh đại diện

Thuỷ tiên (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Nguyễn Văn Tú

Biết rằng gốc tích tự đâu ra?
Cốt cách thiên nhiên, vẻ ngọc ngà.
Trước án đặt vào trong bể đá,
Sáng mai bỗng nở mấy chồi hoa.
Chuyên tay còn kén chi phường lái,
Ngán nỗi riêng vui với lão già.
Thơm thồi nghìn năm sau vẫn thấy,
Mận, đào bên xóm chớ chua ngoa.

Trang trong tổng số 6 trang (51 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ›Trang sau »Trang cuối