Dưới đây là các bài dịch của Lê Phụng. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 9 trang (83 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hoạ đáp Hoàng tham tri tặng hồi nguyên vận (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Phụng

Lại ra lần nữa làm quan
Thân này hai bận mười năm đủ rồi
Ngâm thơ Đỗ Phủ thương đời
Noi gương Bành Trạch yên vui cảnh vườn
Mắt già dâu biển ngại ngần
Sống thừa tìm chốn gửi thân yên lòng
Giúp đời nhờ sức chư ông
Cửa sài đóng chặt nhưng mong bấy rầy

Ảnh đại diện

Sơ chí Đà tấn phụng tống đương sự chư quân (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Phụng

Ngước nhìn thành nội lệ giàn
Tuân lệnh vua tới cửa Hàn đêm qua
Trung hưng nào thiếu tài ba
Xin vua cho kẻ bệnh già về hưu
Tóc sương buồn cảnh xế chiều
Non xanh nước biếc là điều ước mơ
Hoa vàng chót lỡ hẹn hò
Uyên Minh ba luốn vườn xưa xin về

Ảnh đại diện

Tế Trình thị muội Văn (Đào Tiềm): Bản dịch của Lê Phụng

Rét qua nực tới
Ngày tháng cách trở
Xà nhà bụi phủ
Sân cỏ hoang vu
Trong nhà vắng ngắt
Sùi sụt con côi
Đầy bàn cỗ cúng
Người thác đâu rồi
Ai không anh em
Thường cùng một mẹ
Nhưng em cùng ta
Khác xa thế tình
Mẹ em tạ thế
Thủa mình thơ dại
Ta mới mười hai
Em chớm chín tuổi
Từ thủa để chỏm
Tới kỳ chải tóc
Thương người em nhỏ
Có đức có hạnh
Khiêm nhường ít lời
Vui nghe điều lành
Đoan chính thuận hoà
Vẹn toàn chữ hiếu
Trong chốn phòng khuê
Đáng bực gương mẫu
Từng nghe làm lành
Tất gặp sự lành
Ông Xanh bất công
Chẳng chút đền đáp
Thủa ở Giang Lăng
Từng bị trời phạt
Anh em lìa đàn
Sở Việt cách biệt
Riêng ta cùng em
Trăm đường thua thiệt
Ảm đạm mây cao
Trăng đông lạnh lẽo
Mây che sớm mai
Gió lùa thê thảm
Xúc động khôn cầm
Mắt trào lệ máu

Ôn lại truyện cũ
Xa xưa chẳng quên
Thư em giữ đủ
Trước mắt con nhỏ
Một khi ra đi
Sao chẳng có về
Nhà trên quạnh quẽ
Bao giờ trở lại
Nheo nhóc con côi
Nương ai nhờ ai
Lởn vởn cô hồn
Ai cúng ai thờ
Sao đây cô Trình
Vĩnh biệt từ nay
Người chết bằng hay
Gặp nhau tuyền đài
Ô hô ai tai

Ảnh đại diện

Đề ảnh (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Phụng

Nhìn ngoài chỉ thấy da ta
Lòng ta thì đến chính ta chẳng tường
Tháng ngày râu tóc điểm sương
Xạm đen gió bụi dặm trường mầu da
Nhìn hình trăm chén chuốc ta
Ngàn sau chẳng biết ta là ai đây
Trông lên nhìn xuống cao dầy
Tân kỳ sóng nước khói mây mịt mùng

Ảnh đại diện

Vãn thiếp Phạm thị (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Phụng

Khóc nàng họ Phạm xót thương
Bẩy năm một chiếu một giường có nhau
Bỏ ta bằn bặt đi đâu
Nỗi con chưa có thêm rầu lòng ta
Ngỡ là chung sống đến già
Hoá ra gặp lại hoạ là kiếp sau
Xa nàng tin bặt bấy lâu
Nỗi nàng vắn số thật đâu có ngờ
Đến khi xanh cỏ yên mồ
Hay tin mới lập bàn thờ thờ vong
Đành nàng phận gái chữ tòng
Khói hương chẳng biết cậy trông ai cùng
Yếm khăn đến tuổi lấy chồng
Mày râu giụi mắt vừa lòng chẳng ai
Chớ trêu sự thế đặt bày
Chẳng lầm duyên kiếp xum vầy cùng ta
Khóc nàng chẳng vị gần xa
Tay nâng chén rượu xót xa tấc lòng
Mưa ngâu tháng bẩy ròng ròng
Hoà cùng nước mắt viết dòng tân thi

Ảnh đại diện

Lữ tấn khốc nội (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Phụng

Hẹn đầu bạc lão vô duyên
Một năm xa cách lỗi nguyền trăm năm
Gọi hồn hồn có về chăng
Vì ai đau xót khóc than não nùng
Tư phong đổi từ Bội Dung
Giữa Tần Hán lễ vẫn chừng ấy thôi
Bệnh già tin đến ngậm ngùi
Tá tà ngọn cỏ quê người mồ chôn

Ảnh đại diện

Điệu nội (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Phụng

Năm chục năm thôi cũng đành
Giấc hoè chợp mắt mà thành ngàn thâu
Ngoài song vùn vụt bóng câu
Ngổn ngang mồ mả ai nào khác ai
Người về tĩnh thổ vui thay
Đường trần kẻ ở nỗi rày xót thương
Sống bằng Bành Tổ xin nhường
Tám trăm năm ấy đoạn trường đòi phen

Ảnh đại diện

Nghĩ vãn ca từ kỳ 3 (Đào Tiềm): Bản dịch của Lê Phụng

Mênh mông cánh đồng cỏ
Hàng bạch dương xác xơ
Trời tháng chín sương lạnh
Đưa ta ra ngoài ô
Bốn bên không nhà ở
Mộ thấp cao nhấp nhô
Ngựa hí vang nghển cổ
Gió từng cơn vật vờ
Nhà tối một đóng kín
Ngàn năm chẳng sáng cho
Ngàn năm chẳng sáng cho
Hiền đạt há khác chi
Người đưa ta đến đó
Đà lục tục ra về ra về
Thân thuộc còn xót xa
Người dưng đà vui vẻ
Chết đi là hết nói
Thân vùi bên sườn đồi

Ảnh đại diện

Kỷ Sửu cửu nguyệt liên dạ phong vũ độc toạ vô liêu dẫn mãn bất chỉ hựu văn đồng ấp nhất lão tồ lạc nhân cảm tác vân (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Phụng

Trùng dương mưa gió xạc xào
Hưu quan nghèo bệnh rượu vào thơ ra
Xóm Tây có đám ông già
Chuyến này chẳng biết ông qua quê nào
Xương cùng xương sống lạ đâu
Khóc than kèn sáo thêm đau đớn lòng
Say rồi uống nữa say cuồng
Bầu trời u ám ngoài song ngẩng nhìn

Ảnh đại diện

Xuân dạ liên nga (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Lê Phụng

Khen mi đôi cánh nhỏ nhoi
Chết nơi lửa sáng chết rồi yên thân
Phải đâu thảng thốt liều thân
Mà là thấy chết gian truân chẳng sờn
Lương năng trời phú vẹn tròn
Không màng danh lợi nay còn mấy ai
Lao vào lửa thương cho mày
Xác thành tro bụi khốn thay lệ trào

Trang trong tổng số 9 trang (83 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] ›Trang sau »Trang cuối