Dưới đây là các bài dịch của Hoàng Văn Lâu. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Trung thu tại Ninh Minh châu (Lê Quýnh): Bản dịch của Hoàng Văn Lâu

Ngày này năm trước ở đông dương,
Mưa thảm mây sầu khắp cố hương.
Che khuất đường về mây vạn lớp,
Vọng trông lối cũ nước muôn trùng.
Năm nay ngày ấy, Minh Giang phố,
Trăng sáng, gió trong ngàn vạn hộ.
Ầm ỹ nha môn ép thưởng trăng.
Bận lòng việc nước không hứng thú.
Dưới trăng, trước gió uổng lòng đau,
Như chốn Tân Đình ca nữ khóc.
Hãy lau nước mắt suốt đêm thâu,
Nhớ vua một buổi mười hai khắc.
Nhớ lại ngày xưa gác Đông Hương,
Vua tôi đầy đủ vui xum họp,
Vua nghĩ nạn dân thực đáng thương,
Tôi bàn cuộc chiến chưa lường được.
Ngày nay vua ở đất Quế Lâm,
Thân tực cánh bèo, mặc nổi chìm.
Xa giá bụi trần chưa rũ sạch,
Tỉnh mơ gặp vật lại mộng tìm.
Bởi ai bầy đặt ra mưu kế,
Chẳng bởi cương thường vì ích kỷ,
Chung đỉnh, cương thường không báo đền.
Quỉ thần trời đất nào biết sợ?
Quân thần nghĩa lớn nặng ngàn vàng,
Sao chúng hung hăng lòng chó lợn?
Đầu quấn khăn hồng mũ đã hỏng,
Cổ treo gươm sắc, kiếm sắp đâm.
Há chẳng thấy:
Đầu Nghiêm, miệng Xích, lưỡi Thường Sơn,
Quả chuỳ Trương Lương, tiết Tô Vũ,
Người xưa oanh liệt nêu gương hay,
Đến nay tấm tắc đời vẫn nhắc.
Há chẳng thấy:
Hai biểu xuất sư sáng ngời sao,
Chèo chống giữa giòng tráng chí cao,
Khó đoán, mặc trời thành cuộc thế.
Tự ta phải quyết trước vung roi,
Rõ ràng dấu cũ thơm ngàn thuở.
Thận trọng tính suy sao chẳng nghỉ,
Cũng bởi thân, nhà chôn lợi danh,
Chẳng lo xã tắc, nhớ quân phụ.
Vua ta từ bấy sống ra sao?
Khiến trước gió thu nhớ cồn cào.
Mù mịt bụi bay che khuất mắt,
Lờ mờ ngả bóng ánh trăng soi.



[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Văn Dương sứ để quán (Lê Khắc Cẩn): Bản dịch của Hoàng Văn Lâu

Lao khổ sa trường mấy tuyết sương,
Ngồi nhìn sứ giặc tới minh đường.
Chẳng còn gà vịt nuôi dài mỏ,
Chỉ có cân đai chọi nguỵ trang.
Ngoài trận toàn quân còn đối luỹ,
Trên thuyền bộ giáp dễ chầu vương.
Quốc kế chẳng nên hoà nghị mãi,
Vì dân sớm liệu rợ Tây phương.

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]