Dưới đây là các bài dịch của Doãn Kế Thiện. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Đỗ Lăng tẩu (Bạch Cư Dị): Bản dịch của Doãn Kế Thiện

Ông già Đỗ Lăng, quê Đỗ Lăng,
Mấy thửa ruộng xấu cấy quanh năm.
Tháng ba không mưa, lại gió nóng,
Mạ không lên được đều chết bỏng.
Tháng chín lạnh sớm, sương xuống nhiều,
Gié lúa chưa chín đều héo queo.
Quan trên biết rõ mà không xét,
Thúc lấy đủ tô cầu lập công.
Bán đất, cầm dâu nộp cho đủ.
Cơm áo sang năm trông vào đâu?
Lột áo trên mình ta,
Cướp cơm trong miệng ta.
Hại người hại vật là hùm sói,
Cứ gì cào móng, nghiến răng ăn thịt người!
Không biết người nào tâu hoàng đế,
Vua thương bíêt được người tác tệ.
Chiếu thư nói rõ sự ban ơn;
Kinh kì năm nay tha hết thuế.
Lí dịch mới đến ngày hôm qua,
Tay cầm sắc điện dán thôn nhà.
Mười nhà chịu thuế, chín đã đóng,
Ơn vua tha thuế cũng bằng thừa!

Ảnh đại diện

Tân chế bố cừu (Bạch Cư Dị): Bản dịch của Doãn Kế Thiện

Vải đất Quế trắng phau như tuyết
Bông miền Ngô mềm tuyệt như mây.
Vải đã mịn, bông lại dày
Đem may làm áo mặc rầy ấm ghê!
Buổi sáng khoác ngồi lì đến tối
Ban đêm trùm ngủ tới sáng ngày
Mùa đông tháng giá rét gay
Riêng mình lại ấm như ngày mùa xuân.
Nửa đêm bỗng băn khoăn nghĩ ngợi
Vỗ áo cừu bối rối khôn nguôi
Trượng phu quí ở giúp đời
Phải đâu cốt sướng con người mình thôi,
Mong có áo rộng dài vạn dặm
Khắp bốn bề đều đắp rộng ra
Thảy đều yên ấm như ta
Không còn ai phải kêu ca lạnh lùng.

Ảnh đại diện

Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc (Đỗ Phủ): Bản dịch của Doãn Kế Thiện

Kiếm ngoại được tin thu Kế Bắc,
Thoạt nghe nước mắt ứa hai hàng.
Vợ con buồn thảm, liền vui vẻ,
Sách vở mừng điên gấp vội vàng.
Ngày đẹp hát ngao thì chuốc rượu,
Trời xuân theo bước thẳng về làng!
Ngay từ Ba Giáp qua Vu Giáp,
Rồi xuống Tương Dương tới Lạc Dương.

Ảnh đại diện

Đồng Quan lại (Đỗ Phủ): Bản dịch của Doãn Kế Thiện

Bao quân lính ngày đêm vất vả
Thành Đồng Quan nay đã đắp nên
Thành to thừa sức vững bền
Thành con muôn trượng tiếp liền trời mây
Hỏi tên lại: thành này vội đắp
Ngự giặc Hồ, việc gấp phải không?
Mời ta xuống ngựa đi cùng
Chỉ ra góc núi, mãi vùng xa xa:
Đó rào chiến thật là kiên cố
Dù chim bay cũng khó vượt qua
Quân Hồ hết lối xông pha
Tây Đô còn cách đường xa sợ gì
Kìa lối hiểm men đi chót vót
Đường hẹp này chỉ lọt một xe
Dáo dài cũng khó giở nghề
Một người chống vạn, quen lề từ xưa
Trận Đào Lâm đánh bừa mang vạ
Hàng triệu quân làm cá sông Hoàng
Nhắn ông tướng giữ cửa Quan:
Coi chừng chớ lại học chàng Kha Thư!

Ảnh đại diện

Thượng Dương nhân (Bạch Cư Dị): Bản dịch của Doãn Kế Thiện

Người Thượng Dương, người Thượng Dương,
Má phấn phai hồng mái tóc sương,
Thái giám cắt vào việc giữ cửa,
Đã mấy mươi xuân chịu bẽ bàng.
Năm ngoái Huyền Tông mới kén vào,
Khi vào mười sáu, nay sáu mươi
Trăm người kén vào cung một lúc,
Mòn mỏi xuân xanh suốt cả đời.
Nhớ lúc ra đi biệt họ hàng,
Dìu lên xe tiễn cấm buồn thương,
Bảo vào cung cấm, được sung sướng,
Mày mặt tươi hồng, ngực nở nang.
Chưa được đức vua nhìn thấy mặt,
Đã bị Dương Phi để ý ngầm.
Ghen bắt đầy vào cung Thượng Dương,
Phòng không từ đó sống âm thầm.
Sống phòng không, đêm thu dài,
Đêm dài không ngủ giời tối hoài.
Bên ngọn đèn tàn ngơ ngẩn bóng,
Tí tách mưa đêm dội cửa ngoài.
Ngày xuân chẩy,
Ngày chẩy, võ võ trời lâu tối,
Oanh vàng hát mãi chẳng buồn nghe,
Trông én đậu đôi già chẳng ngơi
Oanh đi én lại bao âm thầm
Xuân tới thu qua chẳng nhớ năm
Cung sâu chỉ biết nhìn trăng sáng
Tình tuần trăng đã bốn năm trăm
Ngay nay trong cung tuổi già nhất
Ai nấy gọi đùa cụ Thượng thư
Giày dép đi chật, áo quần hẹp
Sáp xanh tô mày, mày nhỏ sẹp,
Người ngoài không nhìn, nhìn phải cười,
Cuối đời Thiên Bảo thế mới đẹp.
Người Thượng Dương,
Khổ rất nhiều.
Trẻ cũng khổ,
Già cũng khổ.
Trẻ khổ già khổ đều ra sao?
Anh không thấy bài phú “Mỹ nhân” xưa kia của Lã Hướng,
Lại không thấy bài ca “người Thượng Dương tóc bạc” ngày nay ru?

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]