Dưới đây là các bài dịch của Anh Nguyệt. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 1 trang (9 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Phần thượng kinh thu (Tô Đĩnh): Bản dịch của Anh Nguyệt

Gió từ bắc thổi mây bay,
Đừờng dài vạn dặm qua đây sông Phần.
Nỗi lòng, lá rụng, bâng khuâng,
Tiếng thu chẳng để tâm thần lắng nghe...

Ảnh đại diện

Thu triêu lãm kính (Tiết Tắc): Bản dịch của Anh Nguyệt

Thấy cây rụng lá, dạ kinh,
Gió thu đêm thổi, một mình ngồi nghe.
Sáng nhìn đầu tóc mà ghê,
Làm ăn vất vả khó che gương này...

Ảnh đại diện

Khai Nguyên hậu nhạc (Tiết Phùng): Bản dịch của Anh Nguyệt

Đừng đàn khúc nhạc Khai Nguyên,
Nghe lời ca ấy, lòng liền nát tan.
Bân vương, sáo ngọc oán than,
Xe vàng Quắc quốc hương tràn dặm xa.
Giặc nơi Kế Bắc bung ra,
Phần Dương chinh chiến mọi nhà xác xơ.
Trung bguyên, ngựa tốt, vét vơ,
Sang năm, Sa Uyển cỏ giờ ngát hương...

Ảnh đại diện

Hán Vũ cung từ (Tiết Phùng): Bản dịch của Anh Nguyệt

Giữ chay, Hán Vũ lên đàn,
Tự tay rót nước trong làm lễ tiên.
Điện, bàn, ngọc nữ dâng lên,
Kim nhân hứng móc, đứng liền dưới mây.
Mộng mơ, Giáng Tiết vào đây,
Bích Đào, loan cỡi vui vầy nơi đâu?
Mậu Lăng, cung kiếm vùi lâu,
Im lìm ngựa đá, lạnh mầu cỏ xanh...

Ảnh đại diện

Cung từ (Tiết Phùng): Bản dịch của Anh Nguyệt

Mười hai lầu, điểm trang xong,
Vọng Tiên, lên gác, nóng lòng chờ vua.
Đôi khoen, khoá thú vàng lùa,
Rồng đồng, giọt nước đong đưa, ngày dài.
Tóc mây, chải ngắm gương hoài,
Sắp thay áo lụa còn nài thêm hương.
Xa nhòm chánh điện rèm buông,
Gái hầu váy ngắn quét giường cho vua...

Ảnh đại diện

Vọng xuân từ kỳ 1 (Tiết Đào): Bản dịch của Anh Nguyệt

Ngắm hoa nở, chẳng vui cùng,
Nhìn hoa rụng, cũng chẳng chung nỗi buồn.
Nhớ nơi đâu, muốn hỏi luôn,
Lúc hoa nở, rụng, vui buồn hỏi nhau...

Ảnh đại diện

Cung trung hành lạc kỳ 2 (Lý Bạch): Bản dịch của Anh Nguyệt

Liễu mầu vàng nõn như tơ,
Hoa lê như tuyết hững hờ toả hương.
Nơi lầu Ngọc, phỉ thuý nương,
Đền Vàng đang nhốt uyên ương mặn nồng.
Cho xe chạm, gái đi cùng,
Ca nhi, muốn lấy khỏi phòng, được ngay.
Trong cung, đệ nhất, ai đây?
Chính nàng Phi Yến đêm ngày Chiêu Dương...

Ảnh đại diện

Vãn tình (Cao Đường mộ đông tuyết tráng tai) (Đỗ Phủ): Bản dịch của Anh Nguyệt

Cao Đường, chiều tuyết phủ đầy,
Chưa tan, khí độc còn đây mịt mờ.
Trắng phau, hang ngập lấp bờ,
Phong xanh nghiêng ngả, dập dờ đá sông.
Trời nam sương mịt mờ trông,
Mặt trời đỏ rực ở vùng núi tây.
Sáu rồng chiếu sáng nơi đây,
Bóng ta tiều tụy in ngay đất này.
Miệng ngâm, nhưng dạ buồn thay,
Chưa quen người trẻ ngày nay đương thời.
Đài vàng tìm kết nghĩa chơi,
Ôi sao ta gặp cuộc đời nổi trôi,
Như tro, lòng nát cả rồi...

Ảnh đại diện

Đầu giản Hàm, Hoa lưỡng huyện chư tử (Đỗ Phủ): Bản dịch của Anh Nguyệt

Kinh đô, quan chức đều tài,
Áo lông, ngựa béo, đi ngoài tuyết băng.
Trường An, lạnh, khổ, ai bằng,
Xương như muốn nứt, Đỗ Lăng lão già.
Nam Sơn, đậu sớm úa ra,
Thanh Môn, dưa lạnh chắc là thành băng.
Ở làng, ăn hại phải chăng,
Trong triều bạn cũ hoạ hoằn gặp nhau.
Khác thời, dứt bỏ, lạ đâu,
Huống chi đối xử với nhau vụng về.
Trên tường, nắng xuống nhanh ghê,
Nín câm, nước mắt tràn trề, máu pha...

Trang trong tổng số 1 trang (9 bài trả lời)
[1]