Dưới đây là các bài dịch của Anh Nguyên. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 94 trang (931 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Lão tướng hành (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Trẻ đương mười sáu hai mươi,
Ngựa Hồ, chạy bộ, bắt thời dễ thôi.
Bắn con cọp trán trắng rồi,
‘‘Râu vàng’’ Nghiệp Hạ, sánh đôi cũng bằng.
Đánh ba nghìn dậm vẫn hăng,
Một gươm, từng chống cả trăm vạn người.
Hán binh như sấm dậy trời,
Kỵ Hồ bỏ chạy tơi bời, sợ chông.
Vệ Thanh chẳng bại, trời trông,
Không công, Lý Quảng số ông lạ kỳ.
Từ đây, càng yếu hèn đi,
Việc đời lần lữa, đầu thì trắng phau.
Xưa, tên bắn, chẳng ngắm đâu,
Giờ tay cứng vụng như đầu cành dương.
Cố Hầu, dưa bán bên đường,
Đào Tiềm trồng liễu, còn đương học đòi.
Cây già che khuất xóm rồi,
Chơ vơ núi lạnh. khung trời cửa song.
Thề làm Sơ Lặc suối trong,
Chứ không uống rượu a tòng Dĩnh Xuyên.
Hạ Lan, mặt trận mây chuyền,
Hịch quân xuôi ngược suốt đêm lẫn ngày.
Tam Hà, trai tráng, mộ ngay,
Tướng quân, năm đạo, phen này ra quân.
Chiến bào như tuyết trắng ngần,
Liêu trì gươm báu nhanh gần sao rơi.
Cung Yên bắn tướng giặc thôi,
Thẹn binh giáp Việt rộn nơi bệ rồng.
Vân Trung trước, chẳng bận lòng,
Chỉ cần một trận, lập công lớn rồi...

Ảnh đại diện

Lạc Dương nữ nhi hành (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Lạc Dương, cô gái trước nhà,
Khoảng mười lăm tuổi như hoa đương thời.
Chồng ngồi yên ngọc sáng ngời,
Con hầu, cá chép dâng nơi đĩa vàng.
Lầu son, gác vẽ, mơ màng,
Thềm, đào liễu biếc nhẹ nhàng gió lay.
Lên xe, màn lụa hương bay,
Vào phòng, quạt quý cầm tay đón chào.
Chồng giàu, tuổi trẻ, tài cao,
Kiêu kỳ, xa xỉ, khác nào Quý Luân.
Dạy nàng Bích Ngọc múa nhuần,
San hô đem tặng, chẳng cần so đo.
Cửa song nắng tắt bày trò,
Pháo hoa, từng hạt nhỏ to bay đầy.
Vui tàn, múa hát tiếp ngay,
Hay ngồi bên cạnh lò bay hương trầm.
Phồn hoa, cùng hưởng mọi phần,
Ngày đêm, Triệu, Lý bạn thân, qua thường.
Đẹp như gái Việt ai thương,
Vì nghèo giặt lụa năm trường bến sông!...

Ảnh đại diện

Đào Nguyên hành (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Núi xuân, theo nước thuyền bơi,
Hai bờ đào nở tận nơi bến đò.
Ngắm hoa, đường xá chẳng lo,
Thanh Khê đi tới, trước đò thấy ai!...
Quanh co vào núi đoạn dài,
Bỗng đâu núi mở, đất lài phẳng phiu.
Xa nhìn, cây nấp mây chiều,
Gần, nghìn nhà lẫn vào nhiều trúc, hoa.
Truyền tiều, gốc Hán sanh ra,
Ở lâu, chưa đổi được ra áo Tần.
Vũ Lăng vốn gốc là dân,
Bỏ theo ngoại vật, sống gần cỏ cây.
Trăng soi, phòng bóng thông đầy,
Hừng đông, chó sủa lẫn bầy gà kêu.
Người nghe khách tục, lại nhiều,
Dẫn về, tranh hỏi những điều quê xưa.
Quét hoa sáng sớm rụng bừa,
Ngư tiều theo nước, chiều vừa về đây.
Xưa vào lánh nạn chốn này,
Cảnh tiên, như gặp nên nay không về.
Có người trong núi, ai ngờ,
Ngoài đời chỉ thấy mây mờ núi cao.
Cảnh u linh dễ thấy sao!
Nhưng quê sao vẫn nao nao lòng trần.
Động, rời, sông, núi, qua dần...
Giã nhà, lại tính một lần chơi xa.
Đinh ninh đến chốn đã qua,
Nào hay khe, núi, khác xa bấy giờ.
Núi sâu, vượt, nhớ lờ mờ,
Thanh Khê bao độ cách bờ rừng mây?
Xuân, đào ven suối nở đầy,
Nguồn tiên, khó nhận, tìm nay chốn nào?!...

Ảnh đại diện

Tây Thi vịnh (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Người ta trọng sắc đẹp thôi,
Tây Thi há chịu mãi đời hèn đâu.
Sớm, bên suối Việt giãi giầu,
Chiều, là phi nữ trong lầu vua Ngô.
Nghèo, đâu khác bạn bao giờ,
Đến nay quyền quý, nào ngờ, hiếm hoi.
Phấn hương, sai kẻ tôi đòi,
Khi thay áo lụa, chỉ coi người làm.
Vua chiều, kiêu ngạo đồn vang,
Vua yêu, chẳng kể trái ngang phải gì.
Bạn bè giặt lụa cùng thì,
Không cô nào được chung đi xe về.
Nhắn cô hàng xóm gần kề:
‘‘Chau mày, bắt chước không hề ích chi!’’...

Ảnh đại diện

Vị Xuyên điền gia (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Nắng tà rọi xuống xóm quê,
Ngõ cùng, vội vã trâu dê về chuồng.
Chăn trâu, cháu ở ngoài đồng,
Lão quê đứng cửa chờ trông chúng về.
Trĩ kêu, lúa mạch sum suê,
Tầm còn đang ngủ, hái về dâu xanh.
Nông phu, bừa vác, bước nhanh,
Thấy người thấy tiếng, âm thanh rộn ràng.
Phải chăng như thế an nhàn,
Lòng ta thanh thản, ngâm tràn "Thức vi"...

Ảnh đại diện

Thanh Khê (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Sông Hoàng-Hoa, bảo đi vào,
Thanh-Khê, gặp suối nao nao theo dòng.
Quanh co theo núi chảy vòng,
Đường đi trăm dặm tưởng không quá nào.
Nước reo ghềnh đá ào ào,
Rừng tùng xanh thẫm trải vào núi xa.
Dập dờn bãi ấu bao la,
Long lanh lau sậy nắng tà chiếu soi.
Lòng ta vốn thích thảnh thơi,
Nước trong như thế im xuôi theo dòng.
Xin ngồi trên đá bên sông,
Buông câu, thơ thới lòng không bận gì...

Ảnh đại diện

Tống biệt (Há mã ẩm quân tửu) (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Xuống ngựa cùng anh nhắp chén nồng,
Hỏi anh xem có chuyện gì không.
Anh rằng: ‘‘Gặp việc không vừa ý,
Về thẳng Nam-Sơn nằm khểnh trông.
Thôi để tôi đi, đừng hỏi nữa,
Còn bay, mây trắng chẳng có cùng...’’

Ảnh đại diện

Tảo thu sơn trung tác (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Không tài, đời thịnh, chẳng phiền,
Đông Khê, vườn cũ khéo nên giữ rào.
Thượng Bình cưới gả, trách nào,
Hiềm từ quan trễ, quan Đào lệnh ơi.
Giục thu, trùng gáy liên hồi,
Tiếng ve trong núi, chiều rơi càng buồn.
Cửa rào, ai đến! khép luôn,
Một mình, rừng vắng, vui buồn hẹn mây...

Ảnh đại diện

Chước tửu dữ Bùi Địch (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Rượu mời, anh hãy uống đi,
Tình người tráo trở khác gì sóng đâu.
Chống gươm, quen đã bạc đầu,
Cửa son, đến trước người sau, lại cười.
Mưa phùn ướt đẫm cỏ tươi,
Cành hoa muồn nở, lạnh trời, gió xuân.
Chuyện đời: mây nổi, chẳng cần,
Chi bằng no bụng, vắt chân mà nằm...

Ảnh đại diện

Kỳ thượng biệt Triệu Tiên Chu (Vương Duy): Bản dịch của Anh Nguyên

Gặp nhau vừa mới vui cười,
Thế mà đã khóc tiễn người ra đi.
Bên màn tổ, xót biệt ly,
Thành hoang lại để sầu bi vào rồi.
Tiết trời lạnh, núi xa xôi,
Sông dài chảy gấp, ngày trôi, chiều tà.
Cởi dây, thuyền bác đi xa,
Tôi còn cứ đứng ngẩn ra trông thuyền...

Trang trong tổng số 94 trang (931 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] ... ›Trang sau »Trang cuối