Dưới đây là các bài dịch của Đặng Thế Kiệt. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 14 trang (131 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Tần Cối tượng kỳ 1 (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Cối kia làm củi tự năm nào
Quẩn mộ Nhạc Phi hỏi cớ sao ?
Định luận nghìn năm hay phải trái
Đánh la một xác chẳng buồn đau
Bề ngoài sắt thép coi ra vẻ
Trước mặt người Kim lại cúi đầu
Ai bảo tượng này vô tích sự?
Loạn thần ngó thấy ớn nghìn sau

Ảnh đại diện

Nhạc Vũ Mục mộ (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Thương dài trượng tám, cung ngàn cân
Bách chiến Trung Nguyên tướng xuất thần
Ba chữ tội dành nơi phủ tướng
Mười năm công bỏ chốn ba quân
Sông hồ vắng bóng trời Nam Tống
Tùng bách đương đầu gió bắc căm
Buồn ngóng kinh thành lăng miếu cũ
Thê Hà núi ngập khói chiều hôm

Ảnh đại diện

Trở binh hành (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Sắt loảng xoảng, đồng lanh canh
Gà chó kêu, xe ngựa chạy nhanh
Nhà nghèo cửa ngỏ, nhà giàu đóng
Dìu già dắt trẻ vô trong thành
Đất này tháng sáu đến tháng chín
Hai huyện Hoạt, Tuấn cùng nổi binh
Quan lại mười người, giết tám chín
Đầy thành gió thổi máu mùi tanh
Sơn Đông, Trực Lệ xa tương ứng
Bạch Liên giáo thuật lắm thần linh
Quan nha nghe giặc đến
Khêu đèn đêm lập sổ dân đinh
Quan võ nghe giặc đến
Liếc kiếm, mài dao tiếng rợn mình
Nhân dân nghe giặc đến
Đầu tụm năm ba bàn tán quanh
Khách đến từ xa không hiểu chuyện
Lui tới đều theo pháo lệnh thành
Cả miền Hà Nam cùng chấn động
Hịch lệnh như sao tới tấp nhanh
Mặt trời che khuất bụi mù mịt
Chạy dọc ngang quân bộ, kị binh
Kị binh giương cung sừng
Đầy bầu tên có gắn lông chim
Bộ binh vác giáo ngắn
Mũi mới mài, tua đỏ rung rinh
Lại thêm binh khí quân lính mới
Giáo dài trúc vót, vỏ còn xanh
Xe lớn chở cung tên
Xe nhỏ chở chông nhọn
Suốt ngày qua lại chạy liên miên
Mấy trăm dặm đất đâu cũng lính
Bế tắc đường đi, vắng bộ hành
Tiễn xa than lớn, gần im lặng
Lui tới đều chung cảnh khó khăn
Hôm trước Hoàng Hà dâng nước lớn
Năm ngày thuyền đậu chẳng gì ăn
Châu Vệ hôm nay giặc chận cướp
Đường trước bao giờ mới được yên
Ước gì xe gió ngày muôn dặm
Bay vù một mạch đến Yên kinh
Nghe nói nhiều năm dân khổ hạn
Chỉ cấy cầy chẳng được thu ăn
Hồ Nam, Hà Nam mưa không có
Xuân thu ruộng bỏ chẳng ai làm
Gái trai lớn bé xanh xao mặt
Cám thế cơm, rau lê nấu canh
Mắt thấy giữa đường người chết đói
Trong bao hột táo lăn bên mình
Nhà không, chữ "xét" ghi trên vách
Hàng trăm nhà đói khát linh đinh
Dân mọn sao kham đói lại lạnh
Vì miếng ăn, thân mạng coi khinh
"Dân đói loạn ao", thôi khỏi nói
Xét thương một chút sẽ yên lành
Dân chết cứ bảo vì năm xấu
Chớ dối lòng che mắt thánh minh
Hôm trước Tân Trịnh cửa thành dán cáo thị:
"Xét nhà cấp gạo cứu dân lành
Hoàng Hà phía bắc lúa gần chín
Trăm ngày con cái được tồn sinh
Về đi về đi, đừng liều chết
Phủ quan che chở như cha anh"

Ảnh đại diện

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 2 (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Mỗi lần đọc "Mũ nho thân lụy",
Lại khóc thương người cũ Đỗ Lăng.
Ích gì ngời sáng thơ văn,
Bầy con kêu đói sao đành lòng đây ?
Ai cũng khen thơ thầy muôn thuở,
Riêng ta thương phần mộ đìu hiu.
Thuyền sông thu nhớ thêm nhiều,
Buồn trông theo đám mây chiều Lỗi Dương.

Ảnh đại diện

Sở vọng (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Kinh, Tương nghìn dặm cựu danh đô
Một nửa bọc sông, một nửa hồ
Giàu mạnh trời cho, nuôi bách chiến
Quanh co đất vạch, rõ Tam Ngô
Gió thu ngày xế vời quê cũ
Nước chảy mây trôi sạch bá đồ
Đâu đất Tôn, Lưu giành giựt mãi
Một vùng cây cỏ mọc hoang vu

Ảnh đại diện

Quế Lâm Cù Các Bộ (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Trung Nguyên thế lớn sụp tan tành
Dốc sức một phương quyết giữ thành
Kề chết cả ngày không rúng động
Dưới mồ muôn thuở chẳng đuôi sam
Nhà Minh tông miếu thu hiu hắt
Đất Việt non sông bóng xế tàn
Đều bảo Trung Hoa trọng tiết nghĩa
Mà đây hương khói để buồn tanh

Ảnh đại diện

Kê thị trung từ (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Miếu cổ xanh um hàng tùng trúc,
Vẻ thanh thu rất mực Trúc Lâm.
Quảng Lăng đàn cũ vọng âm,
Bài ca Chính khí động tâm ươn hèn.
Máu mãi còn lan trên mặt đất,
Tấm lòng trung cảm được vua ngu.
Khá thương Giang Tả sĩ phu,
Non sông bắt chước Sở tù khóc suông.

Ảnh đại diện

Tỉ Can mộ (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Giả điên, chạy trốn để toàn thân
Đánh Trụ chư hầu họp Mạnh Tân
Bảy lỗ trong tim sao khỏi mổ?
Một gò dưới cỏ đã thành nhân
Giờ nhìn tận mắt khôn ngăn lệ
Đất có thật tình hẳn quí thân
Họ Ngụy quê mùa tham sống nhục
Trung, Lương gượng ép dám chia phân.

Ảnh đại diện

Hoàng Hà trở lạo (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Mây nổi Long Môn đỏ một màu
Côn Lôn sạt một mảng trời thu
Nước tràn trăm dặm mờ phương hướng
Sóng dựng một luồng nổi bãi châu
Bánh bột thịt dê ăn khó nuốt
Bèo trôi cành gãy lạc về đâu
An nhiên một tấm lòng vô ngại
Thỏa thích cả ngày ngắm đám âu

Ảnh đại diện

Hoàng hà (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Trước thuở hồng hoang tạo đất trời
Chảy từ đâu đến, đổ khơi vơi
Chín ngàn trải dặm sông dài nhánh
Năm kỉ sinh vua thánh thịnh thời
Hạ Vũ ngày xưa còn tưởng nhớ
Trương Khiên thời mới có ai người
Giữa thu có chiếc bè đem thả
Ta muốn lên trời chuyến nữa chơi

Trang trong tổng số 14 trang (131 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] ... ›Trang sau »Trang cuối