Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Đề Lý bát đế tự (Phan Trọng Mưu): Bản dịch của Trương Chính, Đinh Xuân Lâm

Lá rụng bèo tan chuyện đã lâu,
Duy còn miếu cổ đứng cheo leo.
Cây dầy núi lạnh chim mai đậu,
Tháp vắng mây che tiều ngủ khoèo.
Tượng Phật may sao còn lại đấy,
Bia không đề chữ biết triều nào.
Khá thương tám vị thờ nơi ấy,
Phó mặc sư nhàn chốn quạnh hiu.


Ảnh đại diện

Đề Nhị Trưng miếu (Phan Trọng Mưu): Bản dịch của Trương Chính, Đinh Xuân Lâm

Tiếc thay sáu chục lẻ năm thành,
Đều thuộc Hai Bà đóng nghĩa binh.
Huyết chiến trả thù chồng nghĩa liệt,
Hùng tâm rõ mặt đáng trung trinh.
Cột đồng nước cũ tình vô hạn,
Tượng đá khôn khuây hận chửa bình.
Linh khí vẫn còn trơ vạn thuở,
Râu mày ngoảnh lại luống buồn tênh.


Ảnh đại diện

Thăng Long thành hoài cổ (Phan Trọng Mưu): Bản dịch của Trương Chính, Đinh Xuân Lâm

Chốn này trải mấy độ phồn hoa,
Càng gẫm càng thêm nỗi xót xa.
Long Đổ thành trơ trăm trận đánh,
Ngưu Hồ sóng vỗ mấy triều qua.
Núi Nùng mây vẽ mầu kim cổ,
Sông Nhị dòng trôi tiếng khóc ca.
Cướp giáo bắt thù ai đó tá?
Nên vì non nước tuốt gươm ra!


Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: