Trang trong tổng số 25 trang (243 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Đề Khâm Châu Trưng nữ tướng miếu (Nguyễn Thiên Túng): Bản dịch của Bùi Văn Nguyên

Thẹn gặp tướng quân ở dọc đường
Múa gươm toan kéo ngược tà dương
Lợi theo nước chảy như mây nổi
Oanh tựa hoa đồng sực nức hương
Chiến đấu đã từng dùng hết kế
Nguy nan đành chịu chẳng còn phương
Nhân qua dưới miếu ngùi thương cảm
Nghĩ thẹn thân mình chín thước thường

Ảnh đại diện

Quá Thân công Nhân Trung cố lý (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Trần Lê Văn

Làng Thân công trên đường chợt tới
Trong ánh chiều tà vời vợi nước non
Đọng mưa đường trát đất bùn
Cày bừa bề bộn đâu còn văn phong
Tiếng Phó soái Tao Đàn còn đó
Miếu Thượng thư Lễ bộ đâu mà
Họ Thân đây một ông già
Chỉ biết cụ Tổ là Nhân Trung

Ảnh đại diện

Bạch liên trì thượng tiểu trai ngoạ bệnh dạ khởi đối hoa tác (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Trần Lê Văn

Bốn năm thô thiển ở kinh hoa
Mê nước xây phòng đọc sách ta
Đêm lắng tiếng mưa cùng tiếng dế
Mình đau lo nước lại lo nhà
Đóm bay ngoài bụi tuôn lửa nhớ
Trúc mọc bên đê ngả bóng tà
Thoang thoảng hương thơm bên ghế chiếu
Biết ngồi hay đứng với sen hoa

Ảnh đại diện

Nhâm Dần tuế đán (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn

Năm tết ở lâu cùng quốc giới
Năm giờ mừng thấy đế thành xuân
Nhị Hà khối nước lay cây lạnh
Cung cấm làn thơm động bụi trần
Chín bệ mũ cờ không cách mấy
Một vườn hoa trúc lại thêm thân
Thẹn điều quyền biến không thành thạo
Mà cũng xênh xang bậc đại thần

Ảnh đại diện

Dạ toạ thính đỗ quyên (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Trần Lê Văn

Phòng sách sau mưa cửa lỏng then
Một vườn trồng cúc một bồn sen
Hồ sâu sóng gợn lay trăng sáng
Tường nhỏ cây um như khói lên
Ra sức giúp gì cho quốc chủ
Buồn lòng khó nối được gia tiên
Đường đời nghiêng ngả cửa lùa gió
Ngồi suốt canh dài nghe đỗ quyên

Ảnh đại diện

Đinh Mùi xuân nhật thư (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Trần Lê Văn

Xuân thu qua lại đã bao lần
Bày biện mâm bàn một chén xuân
Tục cũ noi theo đường hữu hạn
Danh thơm xây dựng khó vô ngần
Loạn xong tóc nọ như pha tuyết
Ôm mãi lòng này tựa nguội than
Còn chút hương thơm vườn cũ đó
Quả mai khóm cúc với chồi lan

Ảnh đại diện

Thu dạ (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Trúc Khê

Gượng sống đời lay lứt,
Mắt loà lòng cũng loà.
Dân đương sầu lụt lội,
Nước chửa hết binh qua.
Mưa lạnh rơi vi vút,
Trùng khuya gọi thiết tha.
Chừng như giời sắp sáng,
Giã gạo tiếng lân gia.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Xuân dạ (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Trúc Khê

Can qua bối rối khổ sinh linh,
Trời đất bao giờ thoi gió thanh?
Trêu ghẹo người chi kêu suốt sáng:
Trong ao chẫu chuộc, dế bên mành.

Ảnh đại diện

Thôn trang hàn dạ nhiên sơn mộc dĩ tự ôn nhân tác (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Trúc Khê

Gió giăng lạnh lẽo một hiên thơ,
Eo óc gà thôn, dạ ngẩn ngơ.
Giữ lúa đồng khuya ai rúc ốc,
Hun sương buồng vắng tớ gây lò.
Như cung, lẽ đạo giời xui vậy,
Tựa bột, con người số định xưa.
Già yếu làm chi thân biếng nhác!
Cuốc vườn vui với thú giồng dưa.

Ảnh đại diện

Vấn Lục Niên thành ẩn giả (Bùi Huy Bích): Bản dịch của Trúc Khê

Người rằng ông bỏ quan,
Dời nhà vào suối đá,
Hỏi ông vui với gì?
Trắng bạc mây mờ toả.
Bất tài buồn cho tôi,
Sớm chiều rộn giấy má.
Xa tưởng nơi nhà ông,
Mây sâu nhiều vẻ lạ.
Đi lúc muốn qua thăm,
Vết trần sợ vấy vá.
Ôi tôi học từ trát,
Thưng đấu chạy long tong.
Mà ông riêng khác thế,
Treo mũ trở về đồng.
Người trỏ thành mây trắng:
“Núi Nam đó nhà ông”.
Cách sông xa đứng ngóng,
Rừng rậm biếc chen hồng.
Cậy ai hỏi ông được:
“Có rõ lòng tôi không?”


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Trang trong tổng số 25 trang (243 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: