Trang trong tổng số 5 trang (43 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thính vũ (Nguyễn Trãi): Bản dịch của Thái

Một thân phòng vắng đêm thâu
Nghe mưa thánh thót đếm sầu tàn canh
Chuông gieo vào giấc mộng lành
Bên kia bụi trúc gõ quanh song cài
Ngâm xong trằn trọc bồi hồi
Chập chờn đến sáng ngỡ trời còn khuya

Ảnh đại diện

Cổ ý (Thôi Hiệu): Bản dịch của Thái

Em mười lăm gả chàng Vương
Yêu kiều lạc bước nhà sang cửa giàu
Tuổi xuân phơi phới làm cao
Chồng làm quan dựa dẫm bao nhiêu lần
Lả lơi khúc hát cứ ngân
Múa yêu màu áo xanh ngần thướt tha
Lúc nhàn chơi chọi cỏ gà
Hết ngày trang điểm mãi mà chẳng xong

Ảnh đại diện

Quá Hải Vân quan (Trần Bích San): Bản dịch của Thái

Ba năm qua lại ba lần
Như chim nhẹ cánh một thân đi về
Lưng trời cây cỏ cao ghê
Ngoảnh trông cõi thế bốn bề nhỏ không
Văn hay lạ bởi núi sông
Người tài ai chẳng phong sương một đời
Ải Tần hiểm mấy ai ơi
Khói lồng đầu ngựa hoa tươi nở tràn

Ảnh đại diện

Quá Hải Vân quan (Trần Bích San): Bản dịch của (Không rõ)

Ba năm vượt ải đã là ba
Một cánh chim côi nhẹ cánh qua
Cây cỏ vươn đầu trời cũng thấp
Càn khôn hé mắt đất nào xa
Văn không non nước tình không chuốt
Tài chẳng phong sương luyện chẳng già
Đừng bảo Tần quan đường lối hiểm
Khói vương đầu ngựa nở rừng hoa

Ảnh đại diện

Quá Hải Vân quan (Trần Bích San): Bản dịch của Vũ Hoàng Chương

Ba năm vượt ải đã ba lần
Nhẹ cánh chim trời dạo Hải Vân
Ngắm rộng kiền khôn coi cũng bé
Lên cao nhật nguyệt tưởng đâu gần
Gió sương như búa tài thêm chuốt
Hồ bể làm nghiên bút mới thần
Đầu ngựa rừng hoa chen khói nở
Cười ai kêu hiểm lối sang Tần

Ảnh đại diện

Cổ phong kỳ 26 (Bích hà sinh u tuyền) (Lý Bạch): Bản dịch của Thái

Sen xanh biếc mọc suối sâu
Mặt trời sớm đẹp tươi mầu điểm tô
Nước xanh nhú đoá hoa thu
Dày san sát lá mịt mù khói xanh
Đẹp không ai sánh đã đành
Thơm tho ai biết để lành đồn xa
Ngồi xem sương toả chiều tà
Đỏ hồng thơm ngát cũng ra úa tàn
Rễ chưa có chỗ bám vin
Nguyện nương tựa góc ao tiên lâu dài

Ảnh đại diện

Cổ phong kỳ 26 (Bích hà sinh u tuyền) (Lý Bạch): Bản chữ Hán

Bài này thực ra không có tên, là bài thứ 26 trong 59 bài cổ phong chép ở đầu tập thơ Lý Bạch. Xin có một chút ý kiến:
1. Bản chữ Hán:
- Câu 5 là 秀色空絕世 (Tú sắc không tuyệt thế), chữ 空 không chứ không phải chữ 粉 phấn. Ở đây chữ 空 không nên hiểu nghĩa là uổng, phí. Đẹp vậy nhưng chỉ uổng công tuyệt thế.
2. 華池 Hoa trì:
- Nhiều bản chú thích là ao đẹp (芳華之池). Tuy thế theo ý câu 5-8 thì 華池 Hoa trì phải hiểu là một nơi nhiều người biết đến, có danh giá nhưng cũng phải lâu bền.
- 華池 Hoa trì, nếu là danh từ riêng, chỉ ao tiên trong truyền thuyết Trung Quốc, nằm trên núi Côn Lôn. Có lẽ cách hiểu này hợp lý hơn (xem thêm http://baike.baidu.com/view/3718860.htm)

Tham khảo sách 李白全集校注彙釋集評 (Lý Bạch toàn tập hiệu chú vựng thích tập bình) do 詹鍈 (Chiêm Anh) chủ biên, 百花文藝出版社 (Bách hoa văn nghệ xuất bản xã), 1996

Ảnh đại diện

Mộng đắc thái liên kỳ 1 (Nguyễn Du): Bản dịch của Thái

Váy bươm bướm tém sát người
Thuyền con chèo giữa đất trời hái sen
Nước hồ sóng gợn lăn tăn
Trong làn nước biếc có chăng bóng người

Ảnh đại diện

Mộng đắc thái liên kỳ 1 (Nguyễn Du): Về một số chữ

Xin phép có một chút ý kiến:
1. Phiên âm: 蛺蝶 ở câu 1 bài 1 nên đọc là "giáp điệp" theo như truyền thống
2. Dịch nghĩa:
- 蛺蝶裙 giáp điệp quần (câu 1 bài 1): váy thêu bướm (xem Hán điển http://www.zdic.net/cd/ci...c9BZdicB1196483.htm). Chữ 裙 quần là váy, mà thời đó ở miền Bắc phụ nữ mặc váy.
- 浺瀜 xung dung (câu 3 bài 1): bản 1965 chép là 冲瀜. Giải thích của các từ điển (như Từ nguyên, Hán ngữ đại tự điển...) thường chỉ có 浺瀜 nghĩa là nước sâu rộng  với trích dẫn bài Hải phú của Mộc Hoa, sách Văn tuyển (xem Hán điển http://www.zdic.net/cd/ci...dicB5ZdicBA2529.htm). Tuy nhiên 冲瀜 thì có 2 nghĩa, nghĩa đầu là nước lai láng như phần dịch nghĩa trên đây, nghĩa sau là sóng lăn tăn (xem Hán điển http://www.zdic.net/cd/ci...ic86ZdicB212349.htm). Xét văn cảnh thì có lẽ nghĩa thứ 2 phù hợp hơn.
- 畏 uý (câu 3 bài 2): bản 1965 dịch là sợ, sát nghĩa gốc của chữ 畏, bản tổng hợp của Nguyễn Thạch Giang-Trương Chính năm 2000 còn dịch rõ hơn là "hoa để cúng người mình sợ", e rằng chưa đúng được với phong cách khoáng đạt của cả 5 bài. Ở phần dịch nghĩa trên đã chuyển thành "trọng", thì cũng đúng với một nét nghĩa của chữ 畏. Mọi người hay trích dẫn mấy bài Mộng đắc thái liên này khi đề cập đến khía cạnh tình cảm nam nữ của Nguyễn Du. Khi nhìn nhận chữ 畏 ở câu 3 trong tương quan với chữ 憐 liên (nghĩa là thương) ở câu 4 thì dường như nên chọn nghĩa chữ 畏 là giận, là ghét (畏,恶也). Giận thì giận đấy mà thương lại càng thương. Cả 2 câu 3-4 có thể hiểu là "Hoa sen thì để tặng cho người mình ghét, còn gương sen thì để tặng cho người mình thương". Cái người mình ghét với cái người mình thương đó cũng chỉ là một người thôi.

Ảnh đại diện

Ngẫu đề (Nguyễn Du): Bản dịch của Thái

Thâm nghiêm lặng lẽ buông rèm
Vắng tanh đêm xuống sân thềm sắc không
Nhịp chày khoan nhặt dưới trăng
Chuối xao xác chuối gió suông đầy nhà
Quê mười miệng đói kêu cha
Kinh thành đau ốm đâu là người thân
Bạn thương lắm nỗi mộng buồn
Ở đời ai chẳng gửi hồn giấc mơ

Trang trong tổng số 5 trang (43 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: