Trang trong tổng số 13 trang (124 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Trùng dương - Hoạ Nguyệt Sinh vận (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Tối trước dậu đông hoa muộn nhen;
Hôm nay chơi núi ngựa xe chen.
Thù du say khướt đầu còn cắm;
Búa nát, cờ tiên chẳng dám xem!

Ảnh đại diện

Hoạ Hàn Thân “Trùng du Đại Quan viên” kỳ 1 (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Khắp chốn trùng kêu gợi mối sầu;
Cố nhân đi khuất chẳng quay đầu.
Hoa tàn hoa nở vì ai nhỉ;
Gió lạnh riêng còn thổi ngập lầu.

Ảnh đại diện

Sắc tứ Tú Phong tự bi (Hồ Nguyên Trừng): Bản dịch của Châu Hải Đường

Chính nghị Đại phu, Tư trị doãn Công bộ Tả thị lang, Lê Trừng người Giao Nam soạn.
Tướng sĩ lang, Hồng Lô tự Tự ban, Quý Thuần người Quát quận viết chữ.
Văn lâm lang, Đại Lý tự Hữu tự Hữu bình sự – Trang Sâm ở Thanh Nguyên viết chữ triện trán bia.

Từ kinh đô đi về phía tây thành hơn sáu mươi dặm, có ngôi chùa tên gọi Tú Phong, vốn do quan thái giám Cao Nhượng cùng với nhà sư trụ trì là Trí Thâm sáng lập lên. Trí Thâm là bậc danh tăng ở Giao Nam vốn người họ Ngô, từ nhỏ đã xuất gia, khắc khổ học hỏi. Năm Mậu thân niên hiệu Tuyên Đức (1428) sư đến Bắc Kinh, ngẫu nhiên gặp đại quốc sư giảng kinh ở ti Tăng lục, có các ngài Nguyệt Công, Luật Thiếp biết đến. Lại nhân các ông Nghĩa Ô, Hiển Toản, Thắng Nạp, Lý Thiền, Nhẫn Tam đều là những người có tình đồng hương mà đắc lễ. Đại pháp sư là bậc Tây thiên Phật tử có lòng quảng thiện bao trùm bèn truyền cho tâm ấn và trụ trì ở chùa Đại Giác trên núi Dương Đài. Thường ngày sư đọc hết kinh Đại Tạng, suốt thời gian dài không xuống núi, giới hạnh rất tinh nghiêm, mọi người đều kính ngưỡng.

Một hôm, sư chống gậy dạo bước lên phía bắc chùa chừng 3 dặm đến sườn núi Tú Phong, trông thấy cảnh trí đẹp đẽ, hình thế như rồng cuộn hổ nằm, vách đá chon von vây bọc quanh phía sau, bên phải bên trái hai dòng suối nối dòng ở trước mặt, cỏ cây mươn mướt, hoa quả tốt tươi, ý chẳng phải nơi phàm địa. Sư bèn hỏi thăm các bậc già lão, thì thấy bảo: các cụ già truyền lại đất này vốn là nơi chùa thiêng ngày xưa. Trí Thâm vui sướng nghẹn ngào nguyền sẽ khôi phục lại nơi đất thánh. Cao công nghe được mừng lắm, bèn ra sức phát tâm, dốc hết tiền của đứng ra làm chủ công đức, cùng với thái giám Trần Ngang, trung quý Hoàng Hùng, Nguyễn Phúc Thâm, Phạm Giác Thọ, Bùi Hỉ, Kim Cương, Nguyễn Giác Mục, Trịnh Trí Quảng, Châu Phổ Minh, Trương Phúc Sơn,… cùng bỏ tiền riêng giúp sư xây dựng đạo trường để cầu chúc thiên hạ thái bình, đức vua muôn tuổi.

Sư bèn dụng tâm sắp đặt, bố trí quy mô, tự mình chăm chỉ tân cần để làm gương cho môn đồ, sắp đặt tiền gạo dồi dào để thợ thuyền kéo đến. Thế là từ mùa xuân năm Quý sửu niên hiệu Tuyên Đức (1433) bắt đầu khởi tạo, đến mùa đông năm Đinh tỵ niên hiệu Chính Thống (1437) thì xong, chưa tới năm sáu năm mà sơn môn chất ngất, điện vũ nguy nga, màu son chói lọi, kim bích lung linh, tường hoa quanh co, toà ngang dãy dọc, phàm những nơi thường phải có thì chỗ nào chỗ ấy đều đầy đủ. Thái giám Trần Ngang, Nguyễn Tông lại quyên góp gia tư, để in ấn Đại Tạng kinh, đầy đủ hộp tủ nghiêm trang lưu giữ ở trong chùa để lưu truyền mãi mãi. Sư (Trí Thâm) vẫn thường qua lại xem đọc luôn luôn để khuyến khích mọi người cùng chăm chỉ học tập, chuông trống hương đèn, sớm hôm tán vịnh những mong bảo hộ quốc thổ, phổ tế quần sinh.

Đến ngày 21 tháng Giêng năm Chính Thống thứ 6 (1441), thái giám Cao Nhượng thực tình dâng tấu lên hoàng đế, kính đội ơn vua ban cho biển ngạch đề tên “Tú Phong tự”, khiến cho rừng núi cũng rạng rỡ, tăng tục đều mở mắt. Trí Thâm đốt hương dập đầu bảo: “May được gặp khi trong nước thái bình, nhân dân no ấm, lại nhân các ngài cùng phát thiện tâm mà giúp thành chùa phật, nên được ơn vua ân tứ, soi sáng muôn đời, há chẳng nên khắc bia mà lưu truyền mãi về sau ư?” Bèn sai đệ tử đến chỗ tôi nhờ viết văn bia. Tôi nói: “Sư Trí Thâm khó nhọc mong nên Phật sự, các ngài lại làm việc phúc để báo ơn vua, coi chỗ dụng tâm đều cùng đến nơi cực thiện, vậy xin viết bài minh rằng:

Đồng tây Thần Châu;
Núi dựng Tú Phong;
Hổ ngồi rồng cuộn;
Cảnh đẹp ẩn trong;
Rộng cao sáng láng;
Tú khí đúc hun;
Suối khe mát rượi;
Cây cỏ tươi hồng;
Thực nơi phúc địa;
Tựa chốn Phạn cung;
Phạn cung thế nào?
Có quy có chế;
Điện vũ nguy nga;
Cổng tường tráng lệ;
Tượng phật tôn nghiêm;
Thiên thần bảo vệ;
Dựng cảnh là ai?
Trí Thâm trụ trì;
Nào sau nào trước;
Xây đắp đủ bề;
Đàn việt lòng thiện;
Giúp việc chẳng nề.
Cầu chúc thánh thọ;
Phù trợ nhân dân;
Ruộng phúc to lớn;
Linh hiển ra ân!
Chùa đã dựng được;
Danh đã lập được;
Vua ban chữ vàng;
Sủng ân chói rực;
Sư Trí Thâm ta:
Kiêm gồm phúc tuệ;
Đứng đầu dựng chùa;
Lưu truyền hậu duệ;
Làm gương đời sau;
Thuật chuyện nối chí;
Trăm đời ở đây;
Thịnh hưng vẫn để;
Còn mãi chùa này;
Viết minh cổ lệ.

Ngày Phật đản tháng đầu mùa hạ năm Quý Hợi niên hiệu Chính Thống năm thứ 8 [1443] triều Đại Minh.
Sa môn trụ trì Trí Thâm lập bia. Cẩm y xá nhân Chu Hưng khắc.

Ảnh đại diện

Túc Hậu Lộc dạ vũ hữu cảm (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Người nghe mưa sen úa,
Cô lữ nay nghe mưa gõ tàu tiêu.
Rắc trời sông xao xác mưa chiều,
Hơi lạnh thấm như giục người nâng chén.
Nhớ bạn năm nao cùng ước hẹn,
Thương mình đêm ấy bóng đơn hàn.

Ai người ngu, ai người trí, ai người bận, ai người nhàn?
Chỉ mưa gió trước song cùng đối ngữ.
Giọt giọt bên thềm như khóc như thương, như oán như sầu, như than như thở.
Như tỏ lòng người mà người biết nói năng chi,
Bồi hồi rượu nhạt một ly!


(Tác giả tự dịch)
Ảnh đại diện

Như mộng lệnh - Ký viễn (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Bạch phát hồng nhan giận nỗi,
Chửa gặp biệt li đã vội.
Sao tỏ được tâm tình,
Trên án tờ mây để rối.
Chớ nói!
Chớ nói!
Nói để lòng này quặn nhói!

Ảnh đại diện

Ứng chiếu trào Tư hoa nữ (Ngu Thế Nam): Bản dịch của Châu Hải Đường

Điểm phấn tô son học chửa nên;
Vai mềm áo rủ nét hồn nhiên.
Ngây thơ lại được vua yêu dấu;
Cho giữ hoa thơm mãi ở bên.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Mộng vãn Tần Lộng Ngọc (Thẩm Á Chi): Bản dịch của Châu Hải Đường

Khóc táng một cành hồng;
Sống cùng, chết chẳng cùng.
Thoa vàng chôn cỏ biếc;
Áo ngát nhuốm xuân phong.
Thuở trước nơi tiêu thổi;
Lầu cao dãi nguyệt suông.
Hoa lê đêm Hàn thực;
Đóng chặt Thuý Vi cung.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Mộng du Tần cung (Thẩm Á Chi): Bản dịch của Châu Hải Đường

Vua thương cho được trở về đông;
Từ bấy Tần cung hết ngóng trông.
Xuân cũng đau thương công chúa mất;
Như mưa hoa rụng, lệ tuôn dòng.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Cán khê sa - Lạp mai (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Tháng chạp đầy cành dát ánh vàng;
Bốn phương mặc khách thảy thăm rừng;
Một cành ai được ấp yêu cùng?

Mây ấy khách quen lòng sắt đá;
Mưa là hàng xóm dạ kiên cường;
Cô Sơn nào thuở kết Châu Trần?

Ảnh đại diện

Du Đông Sơn (Châu Hải Đường): Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn

Mấy lần đã tới Thanh Hoa,
Đông Sơn giờ mới ghé qua lần này.
Đường vắng hoe, cỏ mọc đầy,
Động tiên san sát cạnh ngay nhà người.
Sườn non nóc miếu rêu phơi,
Bên lầu nâng chén rượu mời ngả nghiêng.
Tự bao giờ trống điểm lên,
Mà dư âm động còn trên sóng hồ.

Trang trong tổng số 13 trang (124 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: