Trang trong tổng số 2 trang (13 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi Kitten84 ngày 17/08/2011 07:09
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Kitten84 vào 17/08/2011 07:10
Anh không thấy thời gian trôi
thời gian ở trong máu, không lời
ẩn mình trong khóe mắt làn môi
trong dáng em đi nghiêng nghiêng
như đang viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi -T.Đ.D.
1. Bạn đọc trước đây đã từng quen với một Trương – Đăng – Dung – lý – luận, thì từ đây sẽ quen với một Trương – Đăng – Dung – thơ, những chiều kích khác nhau của một con người. Làm lý luận, Trương Đăng Dung thích thứ lý luận thuần túy, làm việc với các ý tưởng để sản sinh ra ý tưởng. Lý luận văn học của anh, vì thế, gần với triết học, hoặc đi ra từ triết học. Mà triết học với thi ca thì, như Aristote nói, là hai chị em ruột. Bởi vậy, nhìn ở cấp độ này, người ta không hề ngạc nhiên thấy nhà lý luận Trương Đăng Dung làm thơ.
2. Khác với nhiều người chỉ làm thơ khi đã về hưu, hoặc sớm hơn “nghỉ quản lý”, tức sau khi đã đạt được những viên mãn nào đó trên chính trường hoặc trong học thuật, mới làm thơ, theo cái truyền thống “trẻ Nho già Lão” (trẻ văn xuôi già thơ) của Đông Á, thì Trương Đăng Dung làm thơ khi còn là sinh viên đại học và liên tục cho đến ngày nay. Nhưng khoảng cách thời gian kể từ khi những bài thơ đầu tiên của anh được in ở báo Văn nghệ (1978) đến khi thơ anh xuất hiện lại trên tạp chí Sông Hương (2002) là hai mươi bốn năm. Bao năm qua, theo cách nói của Nietzsche, anh bị chi phối bởi “sức mạnh phản ứng”, nên dồn tâm trí nhiều vào việc đi tìm chân lý, dĩ nhiên với anh là chân lý học thuật. Và, lệ thường, một khi đã khẳng định chân lý này thì phải phủ nhận chân lý kia. Người ta phải đi vào khoa học, và với Trương Đăng Dung là khoa học văn học, là vì thế. Và cũng vì thế mà sức mạnh nguyên thủy nguyên khối trong con người bị phân chia, cuộc sống trở nên bị thiến hoạn. Dù là để tạo nên công trình khoa học đầy tính chiến đấu. Nhưng ngày càng, ở Trương Đăng Dung, “sức mạnh hoạt năng” vốn thuộc về nghệ thuật càng trở nên chiếm ưu thế. Thẩm mỹ cũng có xung đột, nhưng là thứ xung đột để ngỏ, không vì sự đúng sai mà vì sự khác biệt. Nghệ thuật, nhất là thơ, nhờ thế bảo toàn được sức mạnh uyên nguyên và sự đa dạng đời sống và thẩm mỹ.
3. Khoảng dăm năm trước đây, tôi, Trương Đăng Dung và Bửu Nam đi ăn tối ở Huế xưa và bàn phiếm về văn học. Nhân đà hứng chuyện, Bửu Nam nói sau này có lẽ Trương Đăng Dung “tồn tại” không phải nhờ những công trình lý luận của anh, mà bằng những bài thơ anh cho đăng tải gần đây. Lúc ấy, tôi thấy Trương Đăng Dung thoáng sững người, im lặng. Tôi vội ra hiệu cho Bửu Nam đừng nói tiếp và lảng sang chuyện khác. Nhưng gần đây, tại một quán cà phê ở Hà Nội, lời nhận xét này vô tình lại được thốt ra từ miệng một người bạn khác của Trương Đăng Dung. Lần này, tôi đã thấy anh mỉm cười vui vẻ. Hóa ra, nhận thức thơ, dù là thơ của mình, cũng là một quá trình. Thơ Trương Đăng Dung càng xuất hiện nhiều trên Sông Hương và tạp chí Thơ, càng được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao, thì càng khẳng định thêm điều đó ở anh. Và, giờ đây, tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng được trình làng. Sự kiện này không nói lên rằng con người thơ Trương Đăng Dung chiến thắng con người lý luận trong anh, mà chứng tỏ là trong “hoàn cảnh hậu hiện đại”, khi các “thần tượng” của Nietzsche hoặc các “đại tự sự” của Lyotard bị hoài nghi và sụp đổ, chân lý trở nên tương đối bởi sự đa nguyên và đa thể của nó, thì đây chính là thời của văn chương nghệ thuật. Trương Đăng Dung, tôi nghĩ, bao giờ cũng là người – của – hiện – tại, như tự ngôn của Picasso, “tôi không tiến đi đâu cả, tôi là hiện tại”.
4. Có thể nói, thơ Trương Đăng Dung là thơ – thời – gian. Người Việt ta, kể từ khi tiếp nhận văn minh phương Tây là bắt đầu từ giã thời gian truyền thống, thứ thời gian quay theo vòng quay của mùa màng hoặc sự tuần hoàn của vũ trụ, để chấp nhận thời gian khoa học, tuyến tính. Từ đó, với họ, thời gian một mặt là sự thành công, là của cải, tiền bạc, mặt khác là cái chết, một cái chết không thể đảo ngược, không thể cứu vãn. Thời gian, vì thế, trở thành một ám ảnh. Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những tiếng nói khắc khoải muốn vượt qua nỗi – ám – ảnh – thời – gian này. Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời – gian – Thơ – Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó, thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là con người, hay nói như M. Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ, tồn tại và thời gian, tồn tại là thời gian. Có lẽ, chính thứ thời gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời này đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ. Thơ Trương Đăng Dung hẳn vì thế mà có không khí hậu hiện đại.
5. Trương Đăng Dung là nhà thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ, thậm chí mỗi câu thơ của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào đó về cuộc đời. Có điều, khác với thơ cổ điển, thông điệp thơ anh không phải là những bưu kiện để người đọc nhận trọn gói, mà là những chấm phá phía chân trời vẫy gọi người đọc đến thám mã và đồng sáng tạo. Bởi lẽ mọi ý tưởng có sẵn, đúng cho tất cả mọi người đều là những ý tưởng đã hóa thạch, còn những tư tưởng sống thì đều đang vận động, dang dở và chưa hoàn kết. Tuy nhiên, làm một nhà thơ tư tưởng là rất khó. Nếu anh để cho một “sứ mệnh” nào đó lấn át ngôn ngữ, thì yếu điểm lập tức trở thành điểm yếu. Rất may là tư tưởng thơ Trương Đăng Dung không đông đặc mà trôi chảy với một khí lực mạnh mẽ vào từng câu chữ, khiến ngôn ngữ thoát khỏi được thân phận công cụ, để có đời sống tự thân, đôi khi tự phát sinh tư tưởng. Nhờ thế, trên đường đến với ngôn ngữ, mỗi bài thơ Trương Đăng Dung là một trạng – huống – ngôn – ngữ – nhân – sinh của anh. Và, qua anh, của người đọc.
Đỗ Lai Thúy
Kon tum, đêm 13 – 1 – 2011
Gửi bởi Kitten84 ngày 17/08/2011 07:05
Hoàng Đăng Khoa
Bằng lối phê bình tri âm, trong lời giới thiệu thi phẩm Những kỷ niệm tưởng tượng [1], nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã gọi tên một cách khá chính xác thơ Trương Đăng Dung: thơ - thời - gian. Có thể nói, ám ảnh thời gian là nỗi ám ảnh xuyên trùm, chi phối kiến trúc nghệ thuật thế giới tập thơ này: "thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy" (Thành phố phía chân trời); "thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi" (Anh không thấy thời gian trôi)...
Cũng như các thi nhân hiện đại, Trương Đăng Dung quan niệm thời gian tuyến tính, mỗi khoảnh khắc qua đi là vĩnh viễn thuộc về quá khứ, con người bất khả cầm giữ, bất lực nhìn vạn vật phôi pha, cái chết nhỡn tiền: "sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được", "những gương mặt những nụ cười mới gặp/ chưa kịp thân đã thấy khác đi rồi" (Anh không thấy thời gian trôi); "nay hai màu tóc đan nhau/ ai biết được/ còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu", "thời gian rơi/ qua từng kẽ ngón tay em vất vả/ không giữ được đâu em/ anh nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ" (Anh không còn gì ngoài em); "răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa" (Có một thời); "tóc bà bạc xóa" (Ảo ảnh); "thôi em đừng khóc/ rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi/ một ngày kia hết mọi buồn vui/ chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ bàn tay ta bất động giữa đất dày/ bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy" (Ảo ảnh)... Để tô đậm tính chất vô thủy vô chung, vô hồi vô hạn của thời gian, tính chất nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người, Trương Đăng Dung đã sử dụng nhiều cách nói phiếm chỉ về thời gian, kiến tạo thứ thời gian "tưởng tượng": "có thể em quên rằng anh đã gặp em/ hai mươi ba ngàn năm về trước/ ở một bến sông/ (...) anh cảm nhận thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này/ giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay/ (...) anh không biết dòng sông trôi về đâu/ bốn mươi sáu ngàn năm nữa" (Có thể); "em chưa đến ngày chưa tỏa sáng/ sông mênh mang nỗi nhớ một con đò/ núi lặng lẽ đứng chờ bóng đổ/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi/ (...) thăm thẳm trời cao đất rộng/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi// xao xuyến những mùa thu gió thổi" (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); "tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054/ tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời" (Những kỷ niệm tưởng tượng)... Tuy nhiên, như phát hiện khá thú vị của Đỗ Lai Thúy, nếu thời - gian - Thơ - Mới, dù chi phối con người một cách rốt ráo, vẫn cứ là thời - gian - khách - thể, thì thời - gian - thơ - Trương - Đăng - Dung còn là thứ thời gian đã được chủ - thể - hóa cao độ: "anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng..." (Anh không thấy thời gian trôi). Từ Thơ Mới đến thơ Trương Đăng Dung là một quá trình.
Thời gian trôi nhanh, "kiếp người ngắn ngủi". Sự thực nghiệt ngã đó con người không những không biết cách hóa giải mà còn vô minh tự lưu đày mình trong kiếp nạn trăm năm. Con người "chuẩn bị sống từ lúc sinh ra", "mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành", "nhàu nát mưu sinh", thứ gọi là "hạnh phúc trên đời" cơ hồ không tồn tại: "anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời/ sông trả lời anh sông chỉ biết trôi/ anh hỏi ngọn núi/ núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi/ anh hỏi con người/ người trả lời anh bằng nước mắt rơi!" (Ảo ảnh). Vũ trụ thì hồn nhiên, vô vi: "sông thanh thản kéo trời/ trôi theo mình lặng lẽ" (Trên đồi Vọng Cảnh), "sông vẫn bình yên hát khúc vô tư/ trời vẫn xanh như thế tự bao giờ" (Có thể), trong khi đó con người lại cuồng phí quỹ thời gian sống hạn hữu cho "trò chơi" bắn giết: "ở đâu đó đang gầm lên tiếng súng/ ở đâu đó bao người ngã xuống/ mắt nhắm rồi chưa một bữa ăn no" (Anh không còn gì ngoài em); "anh đã thấy những người dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân, lang thang/ đòi trở về quê cũ/ và những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao chân bước thụt lùi" (Chân trời); "những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí/ trên nóc toa là trẻ nhỏ người già", "những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi" (Những kỷ niệm tưởng tượng); "những xác người được tìm thấy/ trong lớp đất bom vùi/ ...những đứa con chết/ mặt úp vào ngực mẹ" (Tôi lại nhìn thấy họ); "bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo/ máu người nhuộm đỏ sách Kinh/ bom nổ ở một chợ Bagdad/ thịt người trộn vào rau quả/ những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn" (Ghi chép hè 2009). "Thượng đế đã chết" (Nietzsche). "Chúa đã ra đi". Tội ác ngang nhiên, mặc nhiên hoành hành. Bể khổ đời cứ "dâng triều, sóng cồn lên sôi động". Con người quáng mù cuồng tín "trong những bình minh không có mặt trời/ trong những lâu đài chỉ có cánh dơi" (Ảo ảnh), "những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất" (Giấc mơ của Kafka). Mùa - tuyệt - diệt đang ở rất gần: "khi những cánh rừng già châu Phi bốc cháy/ voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa đông/ khi hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng/ kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu" (Viết cho con); "em ở lại/ một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ ta cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối" (Ảo ảnh); "đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ cười nói huyên thuyên trên những bức tường" (Những bức tường)...
Trong chuỗi ám ảnh về kiếp nạn cuộc người, Trương Đăng Dung đặc biệt ám ảnh về thân kiếp "những người đàn bà". Đó là những người vợ mập mọ chợ búa mưu sinh giữa lúc "những người đàn ông đang ngủ": "họ đi hàng dọc/ gương mặt không trang điểm/ như được vớt lên từ đáy giếng/ đêm qua/ những con nhện biết rằng/ có người đã úp mặt vào tường/ úp mặt vào gối/ úp mặt vào bóng đêm nức nở" (Những người đàn bà); "những người vợ suốt đêm vá lưới/ mắt quầng thâm nhìn chồng" (Tôi lại nhìn thấy họ); "người đàn bà đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/ đêm dài hơn ngày/ ngày dài hơn con đường đã đi/ nỗi buồn của chị/ cũ hơn tháng ngày" (Ghi chép hè 2009). Đó là những nữ y tá "kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói/ không có bông, họ lấy áo choàng lau vội"; những "gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống" (Những kỷ niệm tưởng tượng). Bằng cảm hứng tụng ca, Trương Đăng Dung đã tạc dựng hình tượng những người phụ nữ tận thiện tận mỹ. Đó là những người mẹ với cao cả đức hy sinh: "người mẹ bị thương ruột lòi ra/ vẫn ôm con nhảy xuống hầm tranh nhau chỗ ngồi với rắn" (Những kỷ niệm tưởng tượng); "những người mẹ/ chết vẫn ôm con" (Tôi đã nhìn thấy họ). Đó là "Em" rạng rỡ, cao khiết, sáng trong: "em đã đến/ đẹp như ánh trăng" (Chân trời); "ánh sáng này từ mắt em/ ánh sáng này từ môi em/ ánh sáng này từ ngực em" (Ánh sáng này); "em tỏa sáng giữa đời anh lặng lẽ" (Có thể); "em đã đến thổi màu vào ngọn lửa" (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); "em nói trời xanh anh chỉ thấy mắt em/ em nói mùa xuân anh chỉ thấy môi em" (Không đề)... Những câu thơ như "một trưa tháng Năm cua bò cả lên bờ/ gió Lào thổi vô hồi rát bỏng/ mẹ rũ tóc che người tôi khỏi nóng/ mái tóc người đen nhánh giữa trời cao" (Chúa đã ra đi) hay "anh không còn gì ngoài bàn tay em/ vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời" (Anh không còn gì ngoài em) có thể liệt vào hàng những câu thơ đẹp nhất, ám ảnh nhất viết về người phụ nữ. Người phụ nữ và vũ trụ tương đồng tầm vóc. Vọng ngân trong thơ Trương Đăng Dung âm - hưởng - nữ - quyền nhân văn nhân bản.
Những kỷ niệm tưởng tượng hiện diện một cái tôi nghệ sỹ "cô đơn như ngọn gió": "hơn nửa thế kỷ đi lại trên mặt đất này/ tôi không còn nhiều bạn/ cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi/ tôi không còn ký ức/ những giọt máu cuối trời tuổi thơ" (Ghi chép hè 2009). Ta bắt gặp trong thi tập những thi liệu xuất hiện trở đi trở lại với tần số cao mang tính chất mã hóa. Bên cạnh "quạ" (mã hóa cho nỗi ám ảnh về mùa tuyệt diệt), ta còn gặp những biểu tượng khác như "chân trời" (7 lần), "mặt trời" (9 lần). "Chân trời", "mặt trời" mã hóa nỗi ám ảnh về những khát vọng, khao khát bất khả, bất thành. Cái tôi trữ tình khát cháy được thăng vượt những "quẩn quanh", những tủn mủn, vô nghĩa của thực tại để thực hiện lý tưởng, tìm gặp cái tuyệt mỹ, cái "vô biên và tuyệt đích" (từ dùng của Xuân Diệu), sở hữu ý nghĩa đích thực của cuộc tồn sinh ngắn ngủi: "khao khát một thứ gì nồng cháy như mặt trời" (Chân trời); "anh đi không một phút bình yên/ chân trời dấu những điều không đến" (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi). Nếu Trần Dần từng "khóc những chân trời không có người bay/ lại khóc những người bay không có chân trời" thì cái tôi trữ tình trong thơ Trương Đăng Dung khóc cho người - bay - không - đến - được - chân - trời bởi những quái đản vô hình bủa vây ngáng trở: "khi ta nghĩ đến những miền xa/ phía trước ta đã có những bức tường// những bức tường, những bức tường, những bức tường/ có mặt khắp nơi/ (...) những bức tường không thể phá" (Những bức tường).
Không thể cầm giữ thời gian, không thể kháng cự sức hủy diệt của thời gian, chỉ có cách thực tế nhất là bàn chân mình "để dấu muôn nơi" đóng con dấu hữu hạn đời mình lên càn khôn vô hạn, là "diệu huyền" hóa, vật chất hóa từng milimet hiện sinh:
"em đừng xếp lại chăn
em đừng chải lại tóc
em đừng tô lại môi
cứ để nguyên áo quần trên ghế
cứ để nguyên hiện trạng căn phòng
anh cần vật chứng
trước thời gian"
(Vật chứng)
là tận hiến:
"anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có tự ngàn đời
để cho em rạng rỡ"
(Anh chiếm chỗ bóng đêm)
và "nổi loạn": "ngôi nhà muốn bay/ con đường muốn trôi/ dòng sông muốn dựng ngược/ các sự vật muốn được gọi tên/ các sự việc muốn có đời sống mới" (Thỏa thuận).
Trình tự sắp xếp không phải ngẫu nhiên giữa các bài thơ làm nên kiến trúc chỉnh thể của thi tập, phát lộ một "ý nghĩa thỏa thuận": Con đường khả dĩ hóa giải bi kịch mà con người cần khai phóng trước hết là khai minh, phát quang những bản năng u tối. Và chỉ có tình - yêu - thương may ra đủ sức mạnh cứu rỗi.
Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng, cứ đầy lên trong tôi xác tín: "Không bắt chước Tàu, không bắt chước Tây" (Thạch Lam), cứ là mình, cứ để cho những trải nghiệm, chiêm ngẫm, "những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực" mình bốc cháy thành thi hứng, cứ đi tận cùng hoàn cảnh đương đại, cứ giữ trái tim mình "đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh" thời mình sống, cứ hồn nhiên viết như những gì mình thấy, mình cảm, thì thơ sẽ đủ sức thuyết phục. Nếu quan niệm yếu tính của thơ là tính tư tưởng thì yếu tính của nhà thơ phải là phông nền văn hóa, nói như Bảo Ninh, "tầm văn hóa càng sâu rộng, tác phẩm của anh ta càng đạt được tới gần hơn nỗi niềm và tiếng lòng của nhân dân thời đại mình" [2]. Thơ Trương Đăng Dung là thứ thơ có khả năng làm đầy nơi người đọc những cảm - giác - sống, tâm - tình - thời - đại. Cái gọi là cảm quan/tâm thức hậu hiện đại mà người ta nói nhiều những năm đầu thế kỷ XXI thì ra đã hiển lộ nơi những bài thơ được Trương Đăng Dung viết và công bố cách đây độ ba mươi năm về trước (Chúa đã ra đi, Tôi lại nhìn thấy họ, Những kỷ niệm tưởng tượng...). Thơ Trương Đăng Dung tươi mới. Và riêng khác.
Với tinh thần tôn trọng người đọc, bằng "ngôn từ kết nối/ phân chia" đạt đến độ cô nén, ám gợi: "người nghe tự hiểu/ người nói tự im", Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung "tự do tạo nghĩa" nơi những chủ thể đồng sáng tạo. Nếu "mỗi văn bản là một liên văn bản" (J. Kristeva) và "văn chương như là quá trình dụng điển" (Ngô Tự Lập) thì quá trình tiếp nhận thơ Trương Đăng Dung sẽ trở nên đặc biệt lý tưởng khi người đọc thực hiện cuộc kết nối những gì mình đọc với vốn "điển" có sẵn trong khung văn hóa của mình về Kinh Thánh, về triết học hiện sinh của Nietzsche, triết học ngôn ngữ của Martin Heidegger, triết học hiện tượng luận của Husserl... Thơ Trương Đăng Dung khơi vẫy những cuộc đối thoại tư tưởng, đối thoại văn hóa trong "hoàn cảnh hậu hiện đại", nơi/khi chân lý không có bản gốc, chỉ hiện tồn vô vàn "dị bản":
"thế giới bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận"
(Thỏa thuận)
5.7.2011
H.Đ.K
Gửi bởi Kitten84 ngày 17/08/2011 07:01
Trương Đăng DungNhững kỷ niệm tưởng tượng* của Trương Đăng Dung, không dày, nhưng đủ đầy trong suy nghiệm về thời gian, đau khổ và cái chết qua thứ ngôn ngữ "thỏa thuận" (như Heidegger buộc phải sử dụng ngôn ngữ siêu hình học để nói lên tư tưởng).
Xao xuyến (angoisse) - một khám phá lớn của triết học hiện sinh, là nỗi sợ hãi căn nguyên. Sợ hãi không gì cả, không đối tượng cụ thể, không thể nắm bắt. Nỗi sợ vô hình. Nó có đó, nhưng không thể gọi tên. Khi ta muốn gọi tên nó, khi ta ý định giải thích nó thì nó liền lẩn mất. Lẩn mất, mà vẫn ở lại. Đột ngột xuất hiện trở lại, và gây xao xuyến, khắc khoải.
Chỉ có vài sinh thể ưu tư thâm trầm mới bắt gặp sợ hãi căn nguyên này. Một bắt gặp không cần biến cố lớn lao trong cuộc sống, mà là rất tình cờ. Khi ta lang thang lơ đễnh một mình giữa đồng không mông quạnh, hay khi nửa đêm chợt tỉnh bất ngờ ta thấy ta bất chợt có mặt trên đỉnh núi lạ lẫm. Hay như trên một chuyến tàu đêm nơi một thành phố xa lạ:
Một chuyến tàu hối hả
chạy về đâu trên đất lạ trong đêm.
Tôi thức với trái tim
những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực
không còn đủ sức
chạy theo con tàu.
Khi ta thoát khỏi thao túng hay bận tâm của sự vật quanh ta. Bằng hữu, anh chị em, đồ đạc quen thuộc trong căn phòng quen thuộc.
Khoảng cách bỗng dài thêm
đêm choàng hết những gì còn lại
đâu đó còn ai thức với tôi không?
("Đêm ở Roma")
Không gì cả. Tất cả vật thể đều trôi đi. Chỉ một mình ta ở đó. Ta "thấy" nó và, "được" nó. Như một tặng vật, đặc ân ban tặng cho kẻ trầm tư. Ban tặng không như một chiếm hữu nó, mà ngược lại, chính nó chiếm hữu ta. Lay động ta dữ dội ở thẳm sâu nhất tâm thức ta, cả con người ta. Chối bỏ không được. Chạy trốn càng không.
Đạo Phật cho rằng chỉ khi nào con người vượt qua nỗi sợ hãi căn nguyên này, họ mới đạt đến hạnh phúc viên mãn. Các bậc tu hành với bản lĩnh tu tập và quả phước từ ngàn kiếp trước mới đạt đến cõi đó. Con người phàm trần thì cực khó. Thi sĩ càng không, có lẽ. Không có vấn đề hơn hay kém ở đây, mà khác đi: thi sĩ không muốn "đáo bỉ ngạn".
Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung đầy tràn nỗi xao xuyến, khắc khoải đó. Thời gian, cái chết ("lũ quạ" mang ý nghĩa tượng trưng) và đau khổ (qua, với và trong "bức tường") như thứ ám ảnh - ba trong một, một mà ba - đi xuyên suốt tập thơ mỏng này.
Những bức tường, những bức tường, những bức tường là nhịp ba đập liên lỉ, lặp đi lặp lại không dứt. Những bức tường chính là nguyên do của nỗi khổ ải tạo thêm nhiều dòng sông đau khổ gọi mời phụ lưu đau khổ khác đổ thêm bao đau khổ vào bể khổ cuộc đời - mênh mông, bất tuyệt.
Có những bức tường ta xây
và ta phá,
có những bức tường ta không xây
và không nhìn thấy.
Nhìn thấy hay không nhìn thấy thì vẫn vậy. Dù ý thức hay không ý thức, chủ hay khách, tác nhân hay nạn nhân, buồn hay vui, chia tay hay sum họp, khóc cười, yêu ghét, hồ hởi bắt tay hay xoay lưng lánh mặt hoặc đầu gối tay ấp… ta đều dựng lên bức tường. Những bức tường tạo đau khổ. Tôi khổ, em khổ, anh khổ, chúng tôi khổ, các anh khổ… Tất cả đều bị bao quanh, bị khu trục - không thoát ra được.
Vậy thì làm sao?
Đức Phật ban phát Tứ diệu đế hòng đưa con người thoát khỏi vòng trầm luân của kiếp nhân sinh. Krishnamurti đơn giản hơn: hiểu tức là giải thoát. Nhưng thế nào là hiểu?
Hiện thực thời hậu hiện đại chỉ còn là vật thế vì giả tạo (simulation) đã mất hết hệ quy chiếu với hiện thực như thực mà chỉ quy chiếu đến các kí hiệu khác rồi kéo theo vô vàn kí hiệu khác nữa, trùng trùng duyên khởi tạo tác từ chính ngôn ngữ và hình ảnh đang ngập tràn thế giới ta sống.
Con người [thời] hiện sinh vong thân giữa thế giới đồ vật và trong tha nhân; còn hơn thế, con người hậu hiện đại chìm ngập trong vô vàn hình ảnh phi căn nguyên. Trong khi kẻ hiện sinh bất lực và đau khổ và than vãn, thì kẻ hậu hiện đại kêu gọi nhập cuộc chịu chơi.
Thế nhưng, thi sĩ không phải là tư tưởng gia hay đạo sư, hắn có cách khác: cách đặc thù của thi sĩ. "Chỉ chúng ta kẻ ngụ cư ngang thời gian/ là không rớt lại" (Inrasara, Sinh nhật cây xương rồng). Trương Đăng Dung có cách khác nữa:
Anh không thấy thời gian trôi
chỉ thấy những đám mây di chuyển…
("Anh không thấy thời gian trôi")
Nghĩa là chết đi thời gian, chết đi ba phân kì thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lại. Chết đi cả kì gian (durée). Biến "sát-na thành thường trụ". Chết đi với thời gian có nghĩa là hiểu thời gian, cũng có nghĩa là giải thoát khỏi khổ đau và cái chết. Giải thoát không phải là cắt đứt, không là thoát đi, ra đi, bỏ đi mà là ở lại. "Đi - như là ở lại". Bởi thi sĩ vẫn ở trong cõi người ta, hắn đang bổn phận canh giữ ngôn ngữ dân tộc. Bố tát là hàng đạt đạo, nhưng khác với A-la-hán quả vị đầu, Bồ tát không bỏ đi mà ở lại. Ở lại và chấp nhận nói ngôn ngữ của cõi người. Ngôn ngữ như là thứ phương tiện thiện xảo của thương lượng, hay của "thỏa thuận" ý nghĩa - nói như Trương Đăng Dung.
Văn chương Việt Nam thiếu tư tưởng, - các tư tưởng nền tảng. Triết lí nếu có, chỉ là mấy lí sự vụn, triết lí cóp nhặt đầy chắp vá. Có được một tác phẩm mang tính tư tưởng là điều hiếm.
Năm năm trước Gửi VB (NXB Hội Nhà văn, H., 2006) là một. Phan Thị Vàng Anh đánh thức sự vật đang có mặt trong sinh hoạt ngày thường giữa đời thường. Đúng hơn, các bài thơ gọi tên sự vật đang thức, những sự vật đang trầm tư. Những phố, chung cư, mưa, con hẽm, chiếc taxi, áo len đỏ, cầu thang, cái điện thoại, ngọn đèn, giường, bàn, máy, đồng hồ trên tường, mọt nghiến chân bàn, lá xanh vươn qua song, những đàn bướm trắng, hoa lít nhít... tất cả sự vật có đó. Với con người. Trong cái mà thi sĩ đã gọi tên qua ngữ ngôn của thi ca. Qua đó thiết lập sợi dây tương liên con người với sự vật gần gũi ngày thường, con người gắn kết mình với mặt đất, và an cư trên mặt đất như là ở nhà.
Tập thơ Gửi VB khá mỏng, nhưng nó rất nền tảng. Như Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, không dày, nhưng đủ đầy trong suy nghiệm về thời gian, đau khổ và cái chết qua thứ ngôn ngữ "thỏa thuận" (như Heidegger buộc phải sử dụng ngôn ngữ siêu hình học để nói lên tư tưởng):
và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa.
Thế giới không thuần nhất
bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận.
Chỉ có thi sĩ đích thực mới có thể sử dụng thứ ngôn ngữ "thỏa thuận" như phương tiện thiện xảo mà không tổn hại đến ngôn ngữ như là ngôn ngữ. Ngôn ngữ ở đó, hắn - như một mục tử - bổn phận đứng canh giữ.
Inrasara
Sài Gòn, 7-8-2011
Gửi bởi Kitten84 ngày 10/08/2011 07:01
Trương Đăng Dung đã làm được hai điều khiến người ta kinh ngạc. Thứ nhất, ông được xem là một trong những nhà lí luận văn học hàng đầu của nước ta với những công trình quan trọng: “Từ văn bản đến tác phẩm văn học” (NXB Khoa học xã hội, 1998), “Tác phẩm văn học như là quá trình” (NXB Khoa học xã hội, 2004)… Trong ba bộ phận hợp thành Khoa nghiên cứu văn học, lịch sử văn học và phê bình văn học vẫn còn khá nhiều nhiều người dấn thân nghiên cứu, thì số người làm lí luận văn học luôn ở tình trạng “của hiếm”. Có đốt đuốc đi tìm đỏ mắt cũng chỉ đếm được trên đầu một bàn tay những người suốt đời nghiên cứu lí luận văn học và có tác phẩm tầm cỡ như Trương Đăng Dung.
Một điều kinh ngạc nữa, Trương Đăng Dung là một nhà thơ được văn giới thừa nhận dù ông làm thơ không nhiều và thơ ca không phải là mối bận tâm lớn nhất của ông. Người ta ngạc nhiên khi một Phó Giáo sư-Tiến sĩ đạo mạo, nguyên Phó viện trưởng Viện văn học lại có tài thơ. Thực ra, do người ta quá bám vào câu “Văn là người” của Buffon nên mới ngạc nhiên, chứ thực ra ai cũng có thể làm thơ nếu như thực sự có nhu cầu nội tại khám phá bản thể và diễn đạt cách nhìn nhận con người và thế giới. Dĩ nhiên, nhà thơ tư duy và viết để thể hiện các trạng thái, các tình huống bằng hình ảnh chứ không làm việc bằng khái niệm như nhà lí luận văn học.
Đọc thơ Trương Đăng Dung dễ nhận ra ảnh hưởng từ một con người có óc tư biện nên thơ của ông diễn ý từ những khái niệm triết học và mỹ học. “Vật chứng” là bài thơ tiêu biểu của phong cách thơ Trương Đăng Dung.
Nội dung bài thơ đọc qua cũng đã có thể hiểu ngay tức thì. Bài thơ là chuỗi độc thoại của chàng trai nói với người yêu nỗi sợ của mình. Tài thơ của Trương Đăng Dung phát lộ ở khả năng sử dụng từ ngữ “phổ thông” để diễn đạt những điều vô hình phát sinh từ những nỗi sợ rất khó nắm bắt: “Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc”, “Sợ tiếng bước chân em xa dần/ khi những viên sỏi trong vườn đang ngủ”...
Đọc những câu thơ trong “Vật chứng”, người đọc như gặp lại nỗi sợ tình yêu phai nhạt dần theo thời gian mà “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã từng diễn đạt một cách tinh vi: “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” (bài thơ “Giục giã”). Hóa ra, với những kẻ có “nòi tình” khi đã “vào cuộc”, sự si mê quá mức đã bộc lộ những nỗi sợ mơ hồ chưa hề hiện hữu. Nhưng Trương Đăng Dung không giống Xuân Diệu! Ông không kêu gọi người yêu sống gấp, yêu gấp hưởng thụ sự ngọt ngào của ái tình mà lẳng lặng chấp nhận bi kịch muôn đời: Tình yêu cũng như bất cứ điều gì tốt đẹp được tạo dựng trong cuộc sống nên đều biến mất trước dòng thời gian. Cho nên, một nhà thơ khác là W. Goethe (Đức) đã nói một câu bất hủ mà nhiều người thuộc: “Không có tình yêu vĩnh cửu mà chỉ có những giây phút vĩnh cửu của tình yêu”.
Hiểu được sự “tàn phá” của thời gian, Trương Đăng Dung đã có một phản ứng mơ mộng chỉ có ở nhà thơ với những đòi hỏi vô lí:
Em đừng xếp lại chăn
em đừng chải lại tóc
em đừng tô lại môi
cứ để nguyên áo quần trên ghế
cứ để nguyên hiện trạng căn phòng.
Tất cả những đòi hỏi đó chỉ để đáp ứng một mục đích: “Anh cần vật chứng/ trước thời gian”. Mục đích trên thực ngây thơ! Nhưng nhà thơ nào mà chẳng ngây thơ như đứa trẻ; và khi đã yêu si mê con người cũng trở nên ngây thơ hơn bao giờ hết.
Vượt qua khỏi ý nghĩa của bài thơ tình, “Vật chứng” còn là minh họa cho vấn đề thời gian trong siêu hình học. Thời gian được người Hi Lạp cổ đại ví như thần Cronus ăn thịt những đứa con của mình; thời gian hủy diệt những gì nó sáng tạo ra. Thời gian thực ra là một trong những yếu tố quyết định thân phận con người, nó tạo thành giới hạn không thể chịu đựng nổi. Trước một “kẻ thù hắc ám” (chữ của nhà thơ Pháp C. Baudelaire) là thời gian, con người có nhiều cách phản ứng khác nhau: cam chịu than vãn, hoài cổ, nổi loạn, sống gấp… Nhưng có một cách khác chiến thắng thời gian đó là nghệ thuật: Cái chết không thể bẻ cong các ý tưởng hay phủ nhận những sáng tạo. “Vật chứng” là bài thơ hay đủ khiến nhiều người nhớ và như thế, nhà thơ Trương Đăng Dung đã có một vật chứng trước thời gian.
Gửi bởi Kitten84 ngày 20/02/2011 04:11
Đọc bài thơ “ Ảo ảnh” của Trương Đăng Dung, ngay từ nhan đề đã gợi lên một cái gì mong manh, xa vời, hư ảo. Cuộc đời là một tuồng ảo hóa. Hạnh phúc, tình yêu chỉ như những ảnh hình không có thật…
Chính vì thế mà hành trình của con người trong kiếp nhân sinh trở nên bơ vơ, lạc loài với một sự bấn loạn trong nội tâm:
“Bao năm rồi anh tìm em
trong những bình minh không có mặt trời
trong những lâu đài chỉ có cánh dơi
trong những giấc mơ không đầu không cuối
Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời
sông trả lời anh sông chỉ biết trôi,
anh hỏi ngọn núi
núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi
anh hỏi con người
người trả lời anh bằng nước mắt rơi”
Cuộc kiếm tìm ở đây được đặt trong một không gian hoang phế, rệu rã, ma quái với “ những bình minh không có mặt trời”, “ những lâu đài chỉ có cánh dơi”, “ những giấc mơ không đầu không cuối”. Thế giới trong thơ Trương Đăng Dung là vậy. Đó là một nơi tối tăm và trì đọng, phi lý và bất an, một cõi người xù xì, gân guốc với đầy rẫy những điều khủng khiếp và tởm lợm. Cách nhìn ấy có lẽ ít nhiều mang dấu ấn của F. Kafka ( Nhà văn vĩ đại mà Trương Đăng Dung đặc biệt yêu mến) và cũng ít nhiều mang cảm quan của chủ nghĩa hậu hiện đại. Giữa một thế giới đổ vỡ và hỗn tạp như thế, con người chừng như bị bỏ rơi. Không hy vọng, không niềm tin, không nơi bấu víu, không một lời đồng cảm sẻ chia, con người mang trong mình một khối cô đơn khổng lồ. Nói như J.P. Sartre: “ được ném vào thế giới hiện sinh như một thách thức, con người là một thực thể đơn côi, bé nhỏ và bơ vơ”. Muôn đời “ sông chỉ biết trôi”, muôn đời “ núi chỉ biết ngồi”. Còn loài người ư ? Bao đau khổ, lo toan làm thành nước mắt. Vậy “ em” ở đâu? Hạnh phúc ở chốn nào? Ai trả lời “anh” câu hỏi ấy? Hành trình kiếm tìm chừng như tuyệt vọng. Con người chìm vào bi kịch cô đơn. Để rồi trên con đường mờ mịt ấy, chợt nhận ra rằng cuộc đời là vô nghĩa. Sự tồn tại của kiếp người chỉ như ảo ảnh, ngắn ngủi vô thường như áng mây trôi:
“Thôi em đừng khóc
rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi,
một ngày kia hết mọi buồn vui
chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ
bàn tay ta bất động giữa đất dày
bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy”
Những câu thơ phảng phất tinh thần của Vạn Hạnh Thiền Sư: “ Thân như điện ảnh hữu hoàn vô/ Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô” ( Thân như bóng chớp có rồi không/ Cây cối xuân tươi thu não nùng), phảng tinh thần của Nguyễn Gia Thiều trong khúc ngâm “ Cung oán”: “ Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy/ Kiếp phù sinh ngó thấy mà đau/ Trăm năm có nghĩa gì đâu/ Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. Viết những câu thơ trên, Trương Đăng Dung thể hiện được sự chiêm nghiệm sâu sắc của mình về quy luật cuộc đời, về ý nghĩa kiếp người, về sự chóng vánh ngắn ngủi của thời gian trần thế. Thấu hiểu sâu sắc điều này, nhà thơ vẫn mong: “Em ở lại / một lần nữa cùng anh trong mùa trăng sắp lụi”. Để “ anh” và “ em” “cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối/ tiếng côn trùng trong cát bụi sinh sôi”, để “ Anh nhìn vào mắt em / thấy hình anh ở đó”, để khi không còn tồn tại, anh vẫn nhìn thấy em với những ảnh, những hình. Dẫu biết kiếp người như ảo ảnh, dẫu biết chân nghĩa cuộc đời mờ mịt xa xôi , con người vẫn không dừng chân, vẫn không ngừng tìm kiếm, vẫn trông chờ vào hạnh phúc và tình yêu.
Trương Đăng Dung thường nói, ông làm thơ từ những trăn trở, suy tư tận thẳm sâu tâm hồn mình, từ những thôi thúc bên trong không thể không giãi bày. Bài thơ “ Ảo ảnh” có lẽ cũng được viết ra từ sự thôi thúc bên trong ấy. Đó là những boăn khoăn, day dứt của nhà thơ về con người trong hành trình kiếm tìm cô đơn giữa cuộc đời vô nghĩa.
Hồ Tấn Nguyên Minh
Gửi bởi Kitten84 ngày 13/10/2010 03:16
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Kitten84 vào 13/10/2010 03:29
TỪ BÀI THƠ “TRÊN ĐỒI VỌNG CẢNH” CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG, NGHĨ VỀ MỘT SỨ MỆNH THƠ CA VÀ NHÀ THƠ
NGUT Lê Thái Phong viết riêng cho Hà Tĩnh Online
“Em ngồi bên anh nhìn dòng sông
chảy từ phía chân trời
đầy nắng, mưa và gió.
Không một cành khô, lá khô
sông thanh thản kéo trời
trôi theo mình lặng lẽ.
Không mang theo những gì để trở thành bất tử
sông chảy vô tư bên những lăng mộ im lìm
những đền đài quạnh quẽ.
Đang mùa xuân hay đã sang hè
mà hoa tím rụng đầy mặt nước
chảy về đâu, sông ơi
sao chỉ thấy một con thuyền thấp thoáng?
Em nhìn anh và nhìn dòng sông
anh có thực và dòng sông có thực,
anh nhìn em và nhìn dòng sông
em có thực hay dòng sông có thực?
Anh sợ đến một ngày dòng sông ngừng trôi
đất khô cứng, những giọt buồn hoá đá,
anh sợ đến một ngày hồn anh từ cõi lạ
trở về đây mà không có dòng sông.”
Huế, 4.2007
PGS-TS Trương Đăng Dung không là nhà thơ chuyên nghiệp, anh là nhà nghiên cứu, lý luận văn học tên tuổi hàng đầu, còn là nhà dịch thuật và vốn là Viện phó Viện Văn Học Việt Nam, nhưng những bài thơ của anh thực sự “có mặt” sáng giá trong làng thơ. Chỉ riêng số 9-2007, Tạp chí Thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trương Đăng Dung có những năm bài in ở đầu, bài nào cũng mang vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật đặc sắc: có giọng điệu lạ trong thơ đương đại Việt Nam và tập trung vào chủ đề: sự giới hạn của kiếp người và nỗi mong manh của Cái Đẹp. “Trên đồi Vọng Cảnh” là bài thơ trong số đó.
Đồi Vọng Cảnh nằm bên dòng sông Hương thơ mộng, là thắng tích tuyệt vời mà tạo hoá ban tặng thành phố Huế nói riêng, dân tộc ta nói chung. Mượn cách nghĩ của Lý Bạch, Nguyễn Trãi, thì đồi Vọng Cảnh là cõi tiên trên trời rơi xuống cho nước non mình. Thế mà, gần đây, người ta đã thiết kế để xây nên khối gạch đá sắt thép khổng lồ làm khách sạn trên đó, huỷ hoại sinh thái quần thể đồi- ngọc- quí Trời Đất phú cho ta ấy! Một đồi Vọng Cảnh ở Huế, một hồ Gươm- Hà Nội đang bị xâm thực. Các nhà Khoa học xã hội, các thức giả hàng đầu và báo chí- một cơ quan quyền lực Nhà nước, đã lên tiếng kêu cứu gay gắt. Tiếng nói của họ có phong cách ngôn ngữ riêng, mang sức mạnh riêng. Với tư cách nhà thơ- người mang trong mình nỗi niềm, nghĩ suy sâu nặng với mọi buồn vui của cõi đời, Trương Đăng Dung, đến Huế-tháng 4/2007, thổn thức nên thơ. Tựa đề là “Trên đồi Vọng Cảnh” nhưng chạy suốt năm khổ thơ là hình tượng dòng sông Hương mộng mơ. Ý tưởng lo lắng sẽ mất Vọng Cảnh là tâm trạng chung những người có lương tri, nhưng riêng Trương Đăng Dung – nhà thơ, thì gửi sâu kín trong tứ thơ: “Trên đồi Vọng Cảnh” ngắm vọng Hương Giang. Đồi Vọng Cảnh- dòng Hương Giang trong tâm thức Trương Đăng Dung là cặp bài trùng Tạo hoá sinh ra, là đôi tình nhân từ buổi sơ khai ghép hoà hai nửa để nên Một nguyên sơ, Trọn vẹn. Chính vì thế, hình ảnh gây cảm xúc xuất lộ ngay ở khổ một: Em ngồi bên anh, một đôi tình nhân trên đồi Vọng Cảnh ngắm vọng Hương Giang.
Bên nhau, với tình yêu, đôi trai gái nhận ra, không phải bằng bộ óc mà bằng “trái tim nghĩ suy”: dòng sông “đầy nắng, mưa và gió”, “Không một cành khô, lá khô/ sông thanh thản kéo trời/ trôi theo mình lặng lẽ”. Hình hài dòng sông Hương từ cụ thể (nắng, mưa, gió) đi dần đến nét đẹp tinh thần, hồn vía (không một cành khô, lá khô/…thanh thản kéo trời/ trôi theo mình lặng lẽ). Hương Giang của Trương Đăng Dung là dòng sông- tâm thức rất đẹp và đi vào miền triết lý: “Không mang theo những gì để trở thành bất tử/ sông chảy vô tư bên những lăng mộ im lìm/ những đền đài quạnh quẽ”. Tự nó, Hương Giang là bất tử, bởi nó là Cái Đẹp, nên không cần cậy nhờ ngoại lực siêu phàm nào bên ngoài nó để “trở thành bất tử” nữa! Những ông Hoàng, bà Chúa, kể cả Thánh Nhân phải cậy nhờ công trình kiến trúc, đền đài, lăng mộ đồ sộ để lưu tên. Hương Giang và đồi Vọng Cảnh là Cái Đẹp nên vĩnh hằng!
Đang miên viễn với thực thể Cái Đẹp ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ bỗng giật mình trở về thực tại:
Đang mùa xuân hay đã sang hè
mà hoa tím rụng đầy mặt nước
chảy về đâu, sông ơi
Sao chỉ thấy một con thuyền thấp thoáng?
Như đã nói, các bậc thức giả, nhà báo, nhà khoa học kêu cứu cho đồi Vọng Cảnh (cũng như Hồ Gươm) nhưng bằng con số, bằng phép tính, phép chứng minh, phản bác…Nhà thơ (và nhà nghệ thuật nói chung) tư duy bằng trái tim, cảm xúc bằng bộ óc thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật đa tầng, đa nghĩa… “Chảy về đâu sông ơi” là tiếng thơ thổn thức cho Cái Đẹp bị vi phạm. Nhà thơ và Thơ ca đích thực luôn trăn trở trước sinh mệnh của nó. Thi sĩ Hồ Chí Minh trong Vãn cảnh (Cảnh chiều hôm - Nhật kí trong tù) đã khát vọng vĩnh cửu hoá Cái Đẹp qua hình tượng bông Hoa Hồng bị quên lãng ngoài nhà lao Tưởng Giới Thạch:
“Hương hoa thấu nhập lung môn lý,
Hướng tại lung nhân tố bất bình.”
(Hương hoa bay vào thấu trong ngục,
Tới kể với người trong ngục nỗi bất bình)
“Hoa tím rụng đầy mặt nước” và “một con thuyền thấp thoáng” đơn côi là cảm xúc xa xót cho Cái Đẹp biến thành hình ảnh, thành thơ!
Phát triển mạch thơ từ khổ đầu: Anh- em, đồi Vọng Cảnh- sông Hương, đến khổ thơ thứ bốn: “Em nhìn anh và nhìn dòng sông/ anh có thực và sông có thực/ anh nhìn em và nhìn dòng sông/ em có thực hay dòng sông có thực?” đã đào sâu, mở rộng triết lý, tư tưởng của bài thơ. Bốn dòng thơ, dòng nằm ở vị trí thứ nhất và thứ ba được điệp lại, chỉ thay một chữ “Anh”, “ Em”. Trong mắt “Em”, anh và dòng sông là có thực, nhưng trong cái nhìn sâu thẳm của Anh, thì em và dòng sông liệu có thực? Hỏi đấy, nhưng cảm xúc thì xót xa, triết lý thì sâu thẳm: Tình yêu và dòng sông (tức Cái Đẹp) thật mỏng manh!!! Liệu chúng có tồn tại trên cõi đời!!!
Đi tận cùng nỗi đau và triết lý, bài thơ kết lại thật bàng hoàng:
Anh sợ đến một ngày dòng sông ngừng trôi
đất khô cứng, những giọt buồn hoá đá,
anh sợ đến một ngày hồn anh từ cõi lạ
trở về đây mà không có dòng sông
Nguyễn Tuân trong tuỳ bút Sông Đà nức danh đã từng giả định lạ lùng: một ngày nào đó sông Đà bỗng cạn khô, thuyền bè đi lại và con người đang tắm giặt bị trơ khấc giữa dòng; Nguyễn viết thế để ngợi ca cái quí giá, đẹp đẽ vô hạn của Đà Giang. Nguyễn Du khóc Tiểu Thanh (Độc Tiểu Thanh ký) còn có trong tay “mảnh giấy tàn”- tàng thư của nàng sót lại. Còn Trương Đăng Dung, hoảng sợ cái ngày sông Hương ngừng trôi, đất khô cứng và, kinh sợ nhất: không còn cái gọi là CON NGƯỜI,với dấu hiệu bản chất là biết VUI và BUỒN, bởi “giọt buồn” đã “hoá đá”.
Tiếp nhận bài thơ "Trên đồi Vọng Cảnh" của Trương Đăng Dung, ta trách giận những người định huỷ hoại Vọng Cảnh, hồ Gươm và những thắng tích trời ban cho giống nòi ta vì những tính toán thiển cận, lời lãi kiểu con buôn thời kinh tế thị trường, ta xót xa cho sự mong manh của Tình yêu và Cái Đẹp, ta động thấu sâu xa niềm trắc ẩn trước cuộc đời, con người mà Thơ ca đưa lại. Mặc dầu biết thơ văn, nghệ thuật, nói như ai đó, không bao giờ trực tiếp thay đổi được một thể chế, nhưng mỗi một chúng ta, phải chăng nhờ có nó, biết sống Người hơn…
LTP.
Gửi bởi Kitten84 ngày 18/05/2010 17:15
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Kitten84 vào 18/05/2010 17:41
Một con người không thể tạo thành xã hội nhưng khi có từ hai người trở lên, xã hội được hình thành. Xã hội được sinh ra cùng với những quy định về đạo đức, tín ngưỡng, phong tục tập quán, pháp luật... buộc con người phải tuân theo. Mỗi cá nhân không còn được “tự do thiên nhiên” như muôn thú mà bị ràng buộc trong những rào cản vô hình. Đó là cái mà nhà thơ Trương Đăng Dung gọi là “những bức tường không nhìn thấy”.
Bài thơ Những bức tường có sáu câu lớn nhưng được trải ra 28 dòng thơ. Nhiều câu, chữ, hình ảnh lặp lại khá nhiều nhằm để nhấn mạnh, tạo sự chú ý, nhất là cụm từ “những bức tường”, có thể coi đây là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Hình tượng bức tường rất đa nghĩa, có khi, nó do con người tạo ra và họ có quyền phá bỏ. Nhưng cũng có những bức tường tồn tại khách quan, không phải do con người tạo ra: “những bức tường ta không xây / những bức tường không thể phá...” Đó là những chướng ngại về không gian, thời gian, vật chất đã làm cản trở phần lớn ước mơ của con người:
Khi ta ngước mắt nhìn trời xanhBên cạnh những bức tường vật chất, còn có những bức tường tinh thần do con người tạo ra. Mỗi cá nhân, gia đình hoặc một nhóm người nào đó xây nên “luật” thì cũng có quyền phá bỏ “luật”. Chẳng hạn, trong tình yêu, người ta có thể ra những quy định ràng buộc người yêu. Nhưng đôi lúc quá say đắm không làm chủ được mình, họ cũng có thể... phá “luật”:
trên mặt đất đã có những bức tường,
khi ta cúi xuống nhìn mặt đất
xung quanh ta đã có những bức tường
khi ta nghĩ đến những miền xa
phía trước ta đã có những bức tường.
Anh và em đi trên mặt đất nàyBên cạnh những bức tường do cá nhân xây còn có những bức tường do xã hội xây nên từ hàng ngàn năm nay. Đó là những quy định được cả cộng đồng thừa nhận và buộc mọi người phải tuân theo. Trong lĩnh vực tình yêu có vô số những “luật” mà cá nhân không dám phá như: không được ngoại tình, không được loạn luân, không được quan hệ tình dục trước hôn nhân, không được hôn nhau chỗ đông người, không được... và không được v.v... Bởi vậy:
giữa những bức tường ta xây và phá
Giữa những cái bắt tayNhững bức tường vô hình đó đã làm cản trở những dục vọng của con người, tạo ra biết bao nhiêu bi kịch trong cuộc sống. Người ta yêu nhau nhưng không đến được với nhau cũng do những bức tường, tức là rào cản của dư luận xã hội. Nhưng cũng có thể vì lòng tự trọng, mỗi người buộc phải giữ tư cách của mình để khỏi bị khinh thường. Dẫu có yêu nhau say đắm đến mức nào đi nữa, người con gái cũng giữ một khoảng cách nhất định khiến cho người con trai không thể thâm nhập vào chốn tận cùng của linh hồn và thể xác của mình. Bởi vậy, Xuân Diệu đã từng than thở: “Dù tin tưởng chung một đời, một mộng / Em là em, anh vẫn cứ là anh / Có thể nào qua Vạn lý trường thành / Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” (Xa cách). Và trên khắp thế gian này có hàng triệu Vạn lý trường thành như thế do con người tạo ra để hạn chế sự tự do của mình:
có một bức tường,
giữa em và người em thấy trong gương
có một bức tường,
giữa hai chiếc gối nằm kề nhau
có một bức tường.
Những bức tường, những bức tường, những bức tườngNhững bức tường đó có thể đêm đến cho con người niềm vui đoàn tụ. Người chồng chung thuỷ đem đến cho người vợ niềm hạnh phúc. Người con gái giữ được trinh tiết sẽ mang đến niềm tin tưởng cho người con trai đêm tân hôn. Tuy nhiên, những bức tường đó cũng có thể làm cho những cuộc tình phải chia tay “trong những lời buồn”. Những cuộc hẹn hò vụng trộm khó thực hiện được khi người ta phải nhìn trước ngó sau, nhìn trên ngó dưới... chỗ nào cũng đầy những bức tường vô hình ngăn cản. Chính người khác đã làm cho mình phải mang nỗi khổ vì mất tự do. Bởi vậy mà triết gia Nietzsche đã thốt lên: “Địa ngục chính là tha nhân”.
có mặt khắp nơi,
trong những lời vui đoàn tụ
trong những lời buồn chia tay
Đêm đêm anh vẫn nghe tiếng lũ quạBài thơ giàu hình ảnh nhưng hơi khó hiểu bởi lẽ những hình ảnh này chỉ là những ký hiệu nghệ thuật cần phải được giải mã mới có thể hiểu được ẩn ý của tác giả. Từ ký hiệu ngôn từ đến thông điệp của tác giả có một bức tường ngăn cách. Chao ôi, trong đời sống và nghệ thuật có quá nhiều bức tường!...
cười nói huyên thuyên trên những bức tường này.
Gửi bởi Kitten84 ngày 10/12/2009 19:37
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 12/12/2009 07:48
Tóc em vàng ra sao, anh không còn biết nữa
Nhưng anh biết màu vàng đồng lúa
Khi lúa trĩu bông nặng hạt gọi mùa sang
Anh lại thấy em trong màu lúa chín vàng.
Mắt em xanh ra sao, anh không còn biết nữa
Khi thu đến và bầu trời rộng mở
Tháng chín, bên người mệt mỏi tiễn đưa
Da diết màu mắt em anh lại nhớ.
Tiếng em êm ái ra sao, anh không còn biết nữa
Khi mùa xuân đến và đồng cỏ thở
Anh nghe tiếng em ấm áp vọng về
Từ một mùa xuân xa như bầu trời lặng lẽ.
Gửi bởi Kitten84 ngày 02/12/2009 01:51
Đã sửa 5 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 14/12/2009 07:24
(trích)
1.
Anh ngồi đây trên bờ đá sáng
Ngọn gió nhẹ của mùa hè tuổi trẻ
Như hơi nóng cơm chiều bay sang.
Anh quen để trái tim mình im lặng
Cho những gì dĩ vãng trở về đây,
Phút hồi tưởng đầu anh cúi xuống
Và nhẹ nhàng buông rũ bàn tay...
2.
Ôi yêu em biết bao nhiêu
Trái tim sâu lắng bao điều, em ơi
Xấu xa, cô độc giữa đời
Với em cởi mở mọi lời trước sau.
Em như dòng nước trắng phau
Chảy từ anh, tự lòng sâu thác gầm
Nước đi, đi mãi âm thầm
Thác anh gào thét ầm vang đất trời,
Nước đi, đi đến muôn nơi
Yêu em, anh đứng giữa đời gọi em.
3.
Anh yêu em như con yêu mẹ
Như hầm tối yêu chiều sâu lặng lẽ
Anh yêu em như căn phòng yêu ánh sáng
Như cơ thể người thích yên lặng, nghỉ ngơi,
Anh yêu em như cơ thể con người
Yêu sự sống suốt đời vì cuộc sống.
Anh giữ mãi nụ cười em, với hình với bóng
Như đất giữ những gì rơi rụng,
Trong kí ức anh tất cả vẫn còn
Như a-xít ăn mòn vào kim loại,
Em yêu quý, thân hình em đẹp mãi
Em ở đâu tất cả đấy phai mờ.
Những giây phút trôi qua có lặng lẽ bao giờ
Em ở lại trong lòng anh yên lặng,
Những ngôi sao sáng bừng rồi cũng lặn
Em vẫn sáng ngời trong mắt anh
Hơi thở em trên môi anh mãi mãi mát lành
Như hơi nước trong hang giành giữ lại
Bàn tay em những nét đường mềm mại
Vẫn còn đây trên cốc nước em cầm.
4.
Ô, anh là gì trong những phút giây
ánh mắt em làm cho rõ nét?
Tâm hồn nào và ánh sáng nào đây
Sao ngây ngất, mơ màng không rõ rệt.
Anh vào cõi hư vô vào chiều sâu sắc đẹp
Của cơ thể em êm ái khôn cùng,
như động từ vào trong nghĩa mở
anh bước vào khám phá cõi mông lung...
Mạch máu em như những bông hồng
Khẽ lay động vô hồi êm ả
để mang đi vĩnh viễn men nồng
Tình yêu mở trên sắc hồng của má
Anh trao em mùa quả ngày mai...
Gửi bởi Kitten84 ngày 03/11/2009 05:12
Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Kitten84 vào 09/11/2009 03:44
Cuộc đời không số phận
Trần Thanh Hà
Số phận - tình yêu - hạnh phúc, những vấn đề muôn thuở của sự sống nhân gian. Những tác phẩm bất hủ của nhân loại đều là nỗi niềm suy tư của các thế hệ nhà văn về các vấn đề muôn thuở đó. Chúng ta xót thương cho thân phận làm người phải đối diện với khổ nạn, cô đơn tuyệt vọng... khi đọc "Những người khốn khổ" của Victor Huygo, "Chuông nguyện hồn ai" của Hemingway, "Trăm năm cô đơn" của Marquez hay "Truyện Kiều" của Nguyễn Du... Nhưng, khi đọc tác phẩm của Kafka chúng ta thực sự ngỡ ngàng khi nhà văn đặt ra một vấn đề hoàn toàn mới lạ. Đó là sự phi lý. Cái phi lý của số phận mà con người phải chấp nhận. Bàn tay đao phủ của Định mệnh giáng xuống thân phận chúng ta tàn nhẫn, lạnh lùng và bất ngờ mà ta không thể vượt thoát. Hiểu tác phẩm của Kafka, ta đau xót đến ngàn lần, nhức nhối đến ngàn lần cho cuộc sống làm người. Cảm giác ấy lại đến với ta khi đọc bài thơ "Ảo ảnh" của Trương Đăng Dung.
Thơ Trương Đăng Dung bộc lộ những suy ngẫm của anh về cuộc đời không số phận. Bài thơ này cũng vậy. Cuộc đời không số phận mà nhà thơ muốn nói đến là niềm xót xa của anh vì kiếp người ngắn ngủi. Con người bất lực, nhỏ nhoi trong trò chơi con tạo. Sống - chết mong manh vô cùng. Bởi vì mong manh đến thế nên tất cả thoáng hiện, chợt mất như ảo ảnh mà thôi. Tình yêu, hạnh phúc tưởng cầm trên tay mà tuột mất bao giờ; xác thân, kiếp người tưởng còn hiện hữu ai ngờ chỉ là cát bụi phù du. Vô hạn và hữu hạn, mất và còn, có và không... là những phạm trù anh đề cập đến. Bài thơ có 5 khổ gồm 30 câu thơ đã khái quát được triết lý nhân sinh và thân phận làm người.
Khi con người nhận thức cũng là lúc cô đơn hiện diện, lịch sử của nhân loại là lịch sử của những cuộc kiếm tìm. Trong bóng tối âm u, quờ quạng trong lâu đài hoang phế, cùng tận nỗi cô đơn, một tâm hồn đi tìm một tâm hồn. Cuộc kiếm tìm của anh về cái đẹp, ánh sáng, niềm tin mịt mù, thăm thẳm:
"Bao năm rồi anh tìm em
trong những bình minh không có mặt trời
trong những lâu đài chỉ có cánh dơi
trong những giấc mơ không đầu không cuối".
Điều tưởng chừng như đơn giản mà sao xa xăm đến thế. Nhà thơ hiểu rằng cuộc sống không có tình yêu vô nghĩa như không có mặt trời trong buổi bình minh, không xó bóng người trong lâu đài cổ tích... Không có tình yêu là không có sự sống. Khát vọng cháy bỏng được đến bến bờ hạnh phúc làm nhà thơ cất lên câu hỏi lòng, mà hỏi lòng cũng bằng không, anh hỏi sông, hỏi núi như những chứng nhân đã trải bao thăng trầm. Song, câu trả lời không có. Giá như dòng sông kia "chỉ biết trôi", như ngọn núi kia "chỉ biết ngồi" thì con người đỡ đau khổ bao nhiêu:
"anh hỏi con người
người trả lời anh bằng nước mắt rơi!"
Câu trả lời về hạnh phúc không phải chỉ một lần mà đến hai lần đau xót. Đau xót vì ta không vô cảm, vô tri như dòng sông, ngọn núi tồn tại giữa nhân gian. Hồn ta loay hoay, thao thức để mà đau; và khi ý thức, nhận ra thân phận lại thêm một lần xót đắng. Từ một vấn đề rất riêng tư của cuộc kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc riêng mình, trái tim nhân hậu của nhà thơ chợt đau cái đau chung với mọi người. Cái bất chợt ấy quý giá biết dường nào! Từ thương mình đến thương người, từ hiểu mình đến hiểu người, một quá trình thi nhân chọn phần thua thiệt. Thua thiệt vì lẽ, gánh nỗi đau cho người để trĩu nặng hồn mình thêm một lần nữa. Khổ thơ thứ hai như một tiếng khóc thầm khi nhà thơ nhận ra cuộc đời này chẳng mấy ai hạnh phúc. Nếu có chăng thì hạnh phúc chỉ hiện hình như ánh chớp. Bởi lẽ, cả đời người so với vũ trụ chỉ là một phần tám trăm chớp mắt, vậy hạnh phúc sẽ được tính bằng gì?
Quan niệm về đời người của nhà thơ như phảng phất tư tưởng Phật giáo. Theo triết lý nhà Phật thì bản chất con người là khổ, "đời là bể khổ", "vị mặn của máu, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Nhưng, theo Phật thì con người khổ bởi tham vọng, bởi ham muốn. Và muốn giải thoát, con người phải rũ bỏ luỵ trần. Với Trương Đăng Dung nỗi khổ đau của con người là do con người cảm thức được cái hữu hạn của kiếp sống:
"Thôi em đừng khóc
rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi,
một ngày kia hết mọi buồn vui
chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ"...
Những dòng thơ xa xót, buồn thương về kiếp người hư ảo. Nhà thơ an ủi em, cũng là an ủi mình và an ủi phận người. Lời an ủi thấm đầy yêu thương và truyền cho ta nghị lực. Ẩn đằng sau câu chữ là một niềm mong ước trao cho mọi người và cũng là triết lý sống của anh: Đời người ngắn ngủi là thế, khổ đau là thế nhưng con người đừng gục ngã. Biết đối diện với thực tại, dẫu biết rằng kết thúc cuộc hành trình của một đời là cái chết. Quy luật muôn đời của tạo hoá là vậy, con người sao cưỡng lại được. Nhưng không phải con người sống để mà chết đi. Điều nhà thơ muốn nói, cao hơn thế: Con người sống để yêu thương.
Trong giây lát đời người, niềm yêu thương trở thành diệu vợi. Dù hạnh phúc đời người thật bẽ bàng trước sự sinh sôi của côn trùng và thật hiếm hoi trong những bàn tay tìm nhau run rẩy. Vậy nên, khát khao được sẻ chia trở thành mãnh liệt vô cùng:
"Em ở lại
một lần nữa cùng anh..."
Em, trong khoảnh khắc cuối cùng không chỉ là tình yêu, không chỉ là nỗi đam mê mà trở thành tất cả. Dù chính phút giâu đang cầm hạnh phúc trên tay mà nhà thơ đã đau nỗi đau chia lìa. Con người bị tước đoạt, bị mất sạch bởi thời gian định mệnh. Tất cả đang tàn phai, vụt mất: "kiếp người ngắn ngủi", "trăng sắp lụi", "muôn loài hấp hối"...;Nếu gọi theo thời gian là hồi cuối kết, còn gọi theo không gian là những gì sắp chuyển thành hư vô. Tiếng thời gian gõ nhịp, tiếng đời lăn não nề; muốn trốn chạy cái mất mát, muốn cột cánh thời gian thì tiếng muôn loài, tiếng côn trùng vẫn vang lên thách thức như tiếng chuông nguyện hồn. Sự sống dần tàn phai, cái tưởng chừng bất tử như vầng trăng như tình yêu đôi ta cũng đang lụi dẫn; trong khi đó cõi chết lại lên tiếng với bao lời hoan ca của côn trùng trong cát bụi. Ranh giới mất - còn khó lòng phân định. Vậy nên, dầu có tha thiết đến bao nhiêu thì cũng không tránh khỏi một ngày:
"chỉ thấy em với những hình những ảnh
của mùa hè dang qua
một góc vườn và mấy khóm hoa
chiếc ghế bỏ quên cơn mưa mùa hạ
tóc bà bạc xoá
thấp thoáng bên khung cửa
nắng nhoà."
Thời gian mang bàn tay đao phủ cướp đi tất cả. Bóng hình anh và em chỉ là ảo giác. Chiếc ghế bên góc vườn trơ trọi vì không còn tình nhân và em trẻ trung, duyên dáng, yêu kiều của hôm nay được cuộc đời biến thành cụ bà với mái đầu bạc xoá. Lời thơ xót thương cho em một thuở, xót thương cho cái đẹp chóng tàn. Cả bài thơ như một câu hỏi buồn: còn lại gì trên đôi tay cho con người bước vào vĩnh cửu? 5 hổ của bài thơ đặt ra 5 vấn đề: khát vọng, hạnh phúc, kiếp người, tình yêu và cái đẹp. Cuộc kiếm tìm mòn mỏi của thi nhân tưởng gặp rồi mà bỗng lại là hư không. Thoắt hiện , vụt mất... tất cả chỉ là ảo ảnh. Dường như ảo ảnh đi suốt đời người. Trong quá khứ "anh đi tìm em", cũng chỉ gặp những ảo ảnh; trong hiện tại bên em mà anh đang nghe rời rã của sự tàn phai - mà tàn phai là nhạt nhoà là phôi pha là ảo giác; và tương lai chẳng còn gì nữa, sắp sửa anh và em trở thành hư vô. Bài thơ là cả một nỗi niềm thân phận. Nhà thơ bàng hoàng, quặn xót khi nhận ra cái hư không của kiếp người. Con người khát vọng là thế, yêu thương là thế... tại sao không tránh được khổ đau và cái chết? Tại sao những gì ta quý thương, trân trọng, tôn thờ bỗng một ngày vĩnh viễn ra đi? Thật là phi lý! Biết phi lý đến là vậy, mà nào ta có làm được gì.
Nếu như quan niệm tôn giáo ru ngủ con người biết làm quen với cái chết để chờ kiếp sau đầu thai thì quan niệm của Trương Đăng Dung khác hẳn. Cái nhìn của nhà thơ là cái nhìn tỉnh táo, trực diện; đó là cảm nhận của con người sống thực tại và hết lòng với đời. Vì quá yêu cuộc đời này mới nhận ra kiếp người ngắn ngủi, mới thương những cuộc đời không số phận, mới thấy cái phi lý đeo đẳng loài người. Không phải như quan niệm nhà Phật cho đời là ảo, là không để con người thoát ly hiện tại; ngược lại, nhà thơ muốn nói với bạn đọc rằng: dù ta có ý thức được cái ảo ảnh cuộc đời nhưng hãy sống thật sự. Cái thật ấy phát xuất từ tấm lòng biết chia sẻ, cảm thông; biết trân trọng, nâng niu tình người và biết yêu thương đời bằng cả trái tim.
Nét độc đáo của bài thơ "Ảo ảnh" ở chỗ bài thơ vừa là một câu hỏi vừa là một câu trả lời. Nhà thơ giúp ta nhận ra cái mong manh của kiếp sống, cái nhỏ nhoi của thân phận đồng thời lại như chất vấn ta sẽ làm được gì trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy?
Tác phẩm là một văn bản mở, mỗi người tự tìm câu trả lời cho riêng mình. Hãy đọc bài thơ giữa đêm khuya thanh vắng và lắng nghe câu trả lời vọng từ thẳm sâu hồn ta.
Trang trong tổng số 2 trang (13 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối