Trang trong tổng số 11 trang (101 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hữu cú vô cú (Trần Nhân Tông): Lạp tuyết hài hoa

有句無句,
互不回互。
笠雪鞋花,
守株待兔。

- 笠雪鞋花 nói đầy đủ là 笠重吳天雪,鞋香楚地花, hai câu thơ được trích trong bài thơ Tống Tăng (送僧) của Sĩ Khả (士可) là vị thi tăng ở chùa Phúc Kiến thời Bắc Tống. Đại ý bài thơ đưa tiễn vị tăng đi vân du tìm học, với hai câu diễn tả hình ảnh đậm chất thơ: “Chiếc nón nan nặng thêm vì đọng tuyết ở bầu trời đất Ngô, đôi giày còn phảng phất hương thơm khi đi qua vùng đầy hoa của nước Sở”. Trong bài này Ngài Trần Nhân Tông nói về sự lặn lội tìm học đạo lý.

- 互不回互 nói đủ là 回互不回互 hồi hỗ bất hồi hỗ, từ điển Phật Quang giải thích: Chủ trương trọng yếu của Thiền Thạch đầu, dung hợp Thiền lí với thuyết Thập huyền duyên khởi của tông Hoa nghiêm. Hồi hỗ nghĩa là muôn vật trong vũ trụ đan dệt với nhau, nương vào nhau mà tồn tại, không thể tách rời, tương đương với nghĩa Lí sự vô ngại, Sự sự vô ngại của tông Hoa nghiêm. Còn Bất hồi hỗ nghĩa là mỗi sự vật đều có vị trí riêng, mỗi mỗi trụ nơi tự tính của chính nó, tồn tại độc lập, tương đương với Lí sự các lập, Sự sự trụ vị của tông Hoa nghiêm. Hồi hỗ bất hồi hỗ là hiển bày trong Hồi hỗ có Bất hồi hỗ, trong Bất hồi hỗ cũng hàm có Hồi hỗ, dùng để nói về lí vạn vật nương vào nhau mà tồn tại, nhưng đồng thời cũng tồn tại một cách độc lập. Đối với cảnh giới của Phật giáo, sự nhận thức khế hợp với Tính và Lí không thôi thì chưa phải là sự giác ngộ tối cao, mà còn phải từ nơi tất cả sự tướng do Lí diễn sinh, biết rõ mối tương quan hồi hỗ bất hồi hỗ của muôn vật. Tức là quán xét thấy rõ Sự sai biệt và Lí vô sai biệt là một, hoàn toàn dung hợp với nhau: Đó mới là cảnh giới giác ngộ tối cao. [X. Tham đồng khế trong Cảnh đức truyền đăng lục Q.30].

- Đại ý bốn câu thơ này ngài Trần Nhân Tông nói rằng, đối với quan điểm có và không, hoặc là đối với chân lý vạn vật tương duyên tương sinh hay tồn tại độc lập, dù lặn lội tìm học nơi này nơi khác, thì cũng chỉ là việc làm ôm cây đợi thỏ, khó thành tựu kết quả tỏ ngộ đạo lý.

Ảnh đại diện

Hoạ Kiều Nguyên Lãng vận (Trần Nhân Tông): Khó dịch hết ý

Khi lời thi được giới hạn trong câu chữ thì diễn đạt hết ý thật không dễ tí nào. Đây là điều khó cho người dịch.
Đại ý bài thi như thế này là quá chính xác:
“Bước chân sứ giả phơi phới như áng mây ngàn bay về phương Nam,
Mùa xuân vừa đến, hoa mai chỉ lác đác vài ba nụ.
Thương yêu mọi người như nhau là ân đức của thiên tử,
Sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ trượng phu.
Gió tuyết trước đầu ngựa, người lại trở về,
Non sông đầy trong đáy mắt, hãy dừng ngựa lại chốc lát.
Ngày mai đã qua sông Lô mênh mông khói nước,
Xin cạn chén rượu bồ đào non tươi để rưới mát tấm lòng.“

Ảnh đại diện

Động Thiên hồ thượng (Trần Nhân Tông): Bản dịch của Ban Nhược

Hồ Động Thiên cảnh vật,
Hoa cỏ kém sắc tươi.
Thượng đế thương hiu quạnh,
Vang không chuông từng hồi.

Ảnh đại diện

Đề Cổ Châu hương thôn tự (Trần Nhân Tông): Tức mặc, hải ngân

Nhận định theo kết cấu câu thì bài thi đối theo nhịp 2, 3, cho nên cụm từ 一息墨 đối lại với 兩海銀 là hai cụm danh từ. Vì 一 và 兩 là số từ thì chắc chắn 息墨và 海銀 là danh từ, không thể nào 一 chỉ kết hợp với 息 mà 墨 giữ chức năng riêng; kết cấu 兩海銀 cũng thế, không thể nào 兩 chỉ kết hợp với 海.

Tra cứu ngữ nghĩa thì từ 銀 khi xưa dùng như垠(Hán Ngữ đại từ điển nghĩa thứ 7: 銀通“ 垠 ”。界限), cho nên có thể thấy 海銀 chính là 海垠 với nghĩa "bờ biển". Từ đây có thể giả thiết từ 墨 được dùng giả tá cho một từ nào khác hay là do đọc trại âm mà viết lầm? Theo giả thiết đó mà tra cứu thì thấy có trường hợp từ 息 kết hợp 脈 tao thành từ đôi 息脈với nghĩa "mạch đập; nhịp đập". Phải chăng "mạch"  đọc trại thành "mặc" rồi từ đó viết 脈 thành 墨? Vấn đề này đưa ra mong được sự góp ý từ những học giả uyên bác, mong có sự thống nhất tuyệt đối để ý nghĩa bài thi không còn được hiểu theo suy luận mơ hồ.

Tạm theo cách hiểu này thì bài thi có thể viết thành như sau:
世數一息脈,
時情兩海垠。
魔宮渾管甚,
佛國不勝春

Đề Cổ Châu hương thôn tự
Thế số nhất tức mạch,
Thời tình lưỡng hải ngân.
Ma cung hồn quản thậm,
Phật quốc bất thăng xuân.
Dịch nghĩa
Số đời chỉ là một nhịp đập (của con tim),
Nhưng tình đời (đổi thay nhiều như) đôi bờ biển rộng.
Khi nơi cung ma dường như bị quản thúc rất chặt,
Thì ở cõi Phật tràn ngập sắc màu xuân tươi thắm.

Mạng người trong nhịp thở,
Tình đời xa biển bờ.
Cung ma quản nghiêm nghặt,
Nước Phật xuân chẳng ngờ.

Ảnh đại diện

Tự tại (Tuệ Trung thượng sĩ): Đằng thử

-藤鼠 Đằng thử: Con chuột. Loài này thường sống gần mé nước nơi có nhiều lau sậy, rất giỏi bơi lội, gặp nguy hiểm liền nhảy vào trong nước.
Trong Tục Cao Tăng Truyện có câu: "Chuột hoang dễ xâm phạm (gặm phá), vượn rừng khó ở yên." (《續高僧傳》:“藤鼠易侵。樹猨難靜。”)

Ảnh đại diện

Thủ nê ngưu (Tuệ Trung thượng sĩ): Đả cầu

Trong Ngữ Lục Triệu Châu ghi:
“Có vị tăng hỏi: Đứa trẻ mới sinh đầy đủ sáu thức hay không? Thiền sư Triệu Châu trả lời: Giống như trên dòng nước chảy xiết đánh cầu.”
Chú thích: Trên dòng nước chảy xiết đánh cầu, ý nói đứa trẻ mới sinh tuy tâm niệm của nó như dòng nước chảy không dừng, nhưng sáu thức không phát khởi công dụng, do đó không có phân biệt sai quấy.
【问:“初生孩子,还具六识也无?”师云:“急水上打毬子。”】
注释:急水上毬子:指婴儿念念虽如水流一般不停,六识却无功用,因此没有妄生分别。

Ảnh đại diện

Thoát thế (Tuệ Trung thượng sĩ): Cảm nhận ý thơ

- 焚籠 phần lung: Cái lồng cháy rực, dụ cho ba cõi sanh tử vô thường.
- 都盧đô lô: Ý chỉ toàn bộ. Phẩm Chúc luỵ trong kinh Đạo hành bát nhã quyển 10 (Đại 8, 478 thượng), nói: Sau khi ta nhập Niết bàn, ông hãy giáo hoá chúng sinh trong toàn bộ ba nghìn đại thiên thế giới, đưa họ vào trong Phật pháp và giúp họ thành tựu đạo quả A la hán. (道行般若經卷十囑累品(大八‧四七八上):「我般泥洹後,都盧三千大千國界,其中人民,汝悉教入經法中,悉令成就得阿羅漢道) (Phật Quang đại từ điển)

Đại ý: Xoay mình nhảy một cái ra khỏi lồng lửa cháy rực, muôn việc khi vào tầm mắt toàn bộ đều rỗng không. Ba cõi mịt mù nhưng tâm luôn rõ ràng, mặt trăng lặn phía tây mặt trời mọc hướng đông.

Ảnh đại diện

Thị học (Tuệ Trung thượng sĩ): Cảm nhận ý thơ

Người học kiếm tìm trên chữ nghĩa lăng xăng rối bời chẳng biết phải làm thế nào, uổng công đem hòn gạch mài khổ cực (muốn nó bóng lên thành gương làm sao được), nhắn với bạn thôi đừng nương cậy vào nhà người khác (để tìm kiếm tri thức), chỉ cần một chút ánh sáng xuân loé lên thôi thì khắp nơi đều nở hoa.

Ánh sáng tự tâm loé lên rồi thì đâu đâu cũng là Phật pháp, không cần nhọc công tìm kiếm trên văn tự ngữ ngôn.

Ảnh đại diện

Thị chúng (I) (Tuệ Trung thượng sĩ): Xem lại từ

Trong ngữ lục thiền tông có câu: 海底金烏天上日,眼中童子面前人。 Có chỗ lại ghi: 水底金烏天上日。眼中瞳子面前人。Từ 童子 dùng như 瞳子, nghĩa là con ngươi mắt.  Hai câu thơ có nghĩa: Bóng mặt trời dưới nước (chính là) vầng mặt trời trên hư không, (hình ảnh hiện ra nơi) con ngươi trong mắt (chính là) người trước mặt. Thấu rõ đâu thật đâu hư.
- Trong bài thơ Ngài Tuệ Trung dùng ngắn gọn nên chỉ nói: 童子面前人, nói đủ phải là: 眼中童子面前人.
Đại ý: Nếu muốn vượt lên cao sang bờ bên kia, hãy tham cứu thấu hiểu ý nghĩa câu: (hình ảnh hiện ra nơi) con ngươi trong mắt (chính là) người trước mặt.

Ảnh đại diện

Tâm vương (Tuệ Trung thượng sĩ): Xem lại từ

黃昏不擊鼓,
日午打三更。
黃昏雞報曉,
半夜日頭明。
按習慣說是晨鐘暮鼓,半夜才打三更的梆子,可詩句中寫擊鼓打更的時間都是違背常規,與隨後的兩句詩照應,都是說事物不循常理。
- 日午打三更 nhật ngọ đả tam canh ☸ Giữa trưa gõ canh ba. Câu kì đặc của nhà thiền, là cảnh giới thiền ngộ, dẹp trừ vọng tâm phân biệt đối lập. (Từ điển Thiền Tông)
- Vậy từ 打đả [dă] có nghĩa là: ① Đánh, đập, gõ. Gõ mõ báo canh ba.
Xin được góp ý!

Trang trong tổng số 11 trang (101 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: