Trang trong tổng số 11 trang (105 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Quá Vĩnh Thuần huyện (Đinh Nho Hoàn): “Quá Vĩnh Thuần huyện”, một bài thơ Đường luật trường tồn, xuyên thế kỷ của Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn

Mặc trai Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn (1671-1715) quê xã Sơn Hoà, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Là con trai thứ 3 của Hoàng giáp Đinh Nho Công. Ông mồ côi mẹ từ lúc ba tuổi. Ông học giỏi, thông minh được cha kèm học. Sau về kinh thụ giáo với nhiều bậc danh sư. Năm 30 tuổi, ông đậu Đệ giáp tiến sĩ xuất thân tức là Hoàng giáp. Sau làm quan (hàn lâm viện, đốc học cao bình..v..v..). Đầu năm 1715 ông được nhà vua tin tưởng cử làm phó sứ giúp vua sang nhà Thanh mở lòng hoà hiếu. Ông lấy hiệu là Mặc Trai. Trên đường đi sứ sang Trung Quốc ông sáng tác thơ Mặc Trai sứ tập gồm 93 bài. Thơ ông giàu tính nhân văn, tràn đầy lòng yêu quê hương đất nước. Tâm hồn ông luôn hoà quyện với thiên nhiên. Trong tất cả 93 bài thơ đi sứ của ông, bài nào tôi cũng ngưỡng mộ nhưng tâm đắc nhất vẫn là bài thơ đặc tả cảnh thiên nhiên huyền bí khi ông đi qua Vĩnh Thuần. Bài thơ đã được phiên âm:

QUÁ VĨNH THUẦN HUYỆN

Nhàn vọng soa ý thập Lý Tần
Vĩnh Thuần tiền để lạc hồi Thuần
Tư trung thiết lão nghi đề trụ
Cổ lạc linh hương nại cát cân
Nguyệt quá hoà yên tiểu niếu niếu
Ngừ hồi Hoàng Phạm thuỷ lân lân
Thành đầu nghiêu khởi Huyền thiên miếu
Chung tự sương ninh thụ tự xuân
Hai câu mở đề, tác giả muốn nói lên nỗi niềm của lòng mình trước phong cảnh thiên nhiên khi qua Vĩnh Thuần “Nhàn vọng soa y thập lý tần”. Phó giáo sư Ngô Đức Thọ đã dịch nghĩa (lúc nhàn rỗi, ngắm những mảnh ràu lẫn bên hồ Soa y dài mười dặm) cảnh “Vĩnh Thuần tiền để” đã làm cho lòng người được trở lại hưởng niềm vui tại chốn này. Đó là một cảnh mỹ mục như lời dịch thơ của tiến sĩ Đinh Nho Hồng “Soa y nước biếc phủ ràu tần – Vui hưởng thuần phong huyện Vĩnh Thuần”.

Đứng trước cảnh tượng đó, lòng thi sĩ man mác nghĩ tới bao điều, bao cảnh. Đây là hai câu thơ tả thực:
Tư trung thiết lão nghi đề trụ
Cổ lạt linh hương nại cát cân
Nhà thơ đang nói tại núi Tư Sơn có thứ cây gỗ lim quý làm cột trụ vững chãi. Nơi đây có dòng suối Cổ Lạt lấy nước suối đó dùng nấu rượu rất ngon (rượu ngon thì khăn bền). Theo sự tích Đào Tiềm lấy khăn lọc rượu uống xong quấn lên đầu). Nên lấy nước suối Cổ Lạt nấu rượu thì khăn đào tiền được bền (Cổ Lạt linh hương nại cát cân).

Tiếp theo là hai câu luận:
Nguyệt quá hoà yên tiểu niếu niếu
Ngư hồi hoàng phạm thuỷ lân lân
Nhà thơ Đinh Nho Hoàn lại bình về cảnh tượng nơi đây. Đó là cảnh trăng và thuyền cùng lướt trên mặt hồ soa y, Hoàng Phạm và vẳng nghe như có tiếng sáo vút lên giữa không gian trầm mặc mênh mang. Cảnh thuyền câu dưới ánh trăng ngà trở về trên mặt hồ Hoàng Phạm trong làn gió nhẹ lăn tăn thật thơ mộng, lãng mạn vô cùng. Đứng trước cảnh tượng kỳ diệu đó, ai mà không đắm say, ngưỡng mộ. Tình yêu thiên nhiên dậy lên trong lòng thi sĩ mới vẽ nên được phong cảnh huyền mỹ đó.

Với những vế đối thanh thoát, sắc sảo trùm lên cảnh tượng thiên nhiên thuỷ hồ thơ mộng. Chính từ các phép đối thanh, đối ý mà phong cảnh ở đây được nổi lên như một bức thảm mặc lung linh kỳ thú. Chúng ta hãy xem ông dùng phép đối ý đối từ rất chuẩn mực:
- “Tư trung thiết lão” với “cổ lạt linh hương” tức: “lim núi Tư Sơn” với “nước suối Cổ Lạt”.
- “Nguyệt quá Hoà Yên” (trăng qua Hoà Yên) với “ngư hồi Hoàng Phạm” (thuyền về Hoàng Phạm)

Khi đọc lên ta nghe có sự hoà âm cảnh tượng, thể hiện được tấm lòng giữa cuộc đời thi sĩ.

Sau này nhà thơ, tiến sĩ Đinh Nho Hồng dịch 4 câu đó như sau:
Linh núi Tư Sơn cây cột trụ
Nước dòng cổ Lạt rượu bền khăn
Hoà yên sáo vút trăng lan toả
Hoàng phạm thuyền câu sóng lướt tràn
Thật là 1 cảnh thiên nhiên diệu kỳ sâu lắng. Mỗi khi đọc những câu thơ đó, ta thấy như mình thực sự được đóng ở bên những khuôn hồ ấy mà thưởng ngoạn cảnh trăng thanh gió mát, thuyền buồm thơ mộng, cảm thấy tâm hồn mình đầy thú vị như lòng tác giả vậy.

Ở hai câu kết nhà thơ nói đến cảnh tượng cái đầu thành nhô khỏi miếu huyền thiên in bóng xuống mặt hồ lung linh.
Thành đầu nghiêu khởi Huyền thiên miếu
Khi ngắm cảnh ở đây, tác giả nghe như có tiếng chuông ngân lên từ trong sương vọng tới gọi cỏ cây đâm chồi nẩy nụ để rồi tự làm nên mùa xuân mới.
Chung tự sương minh thụ tự xuân
Cảnh tượng ấy đã nêu bật được một ý tưởng rộng mở sâu xa, thể hiện lòng lạc quan tin tưởng của tác giả. Hình tượng tiếng chuông ngân gọi cỏ cây tự lập mùa xuân mới, nhà thơ Đinh Nho Hoàn muốn nói đến cái tự chủ trong tương lai, cái tiền đồ, cái triển vọng huy hoàng xám lạn của ngày mai. Một tâm hồn thơ đa cảm, sâu lắng của thi sĩ Hoàng Giáp được thể hiện rất rõ, rất thực. Tiến sĩ Đinh Nho Hồng đã dịch 2 câu kết như sau:
Bóng miếu huyền thiên in đáy nước
Chuông ngân sương cỏ gọi mùa xuân
Một phong cảnh tuyệt mỹ. Nhà thơ mặc trai Hoàng giáp có một tầm nhìn cao siêu, một tâm hồn cảm hoá ông đã tả các hình ảnh bằng nhiều từ tượng hình, tượng thanh: “Tiêu niếu niếu” (vẳng có tiếng sáo), “Thuỷ lân lân” (mặt nước lăn tăn).

Và cũng dùng nhiều vế đối chuẩn mực để tả cảnh tả tình. Đây là tình yêu thiên nhiên say đắm của ông. Trong ánh mắt Mặc Trai: Mọi cảnh vật ở đâu cũng như ở quê mình.

Bởi ông quá yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tình yêu đó dồn lên cây bút ngà của nhà thi sỹ Hoàng Giáp. Tứ thơ Đường luật của ông cứ tuôn ra như một dòng chảy theo độ chín muồi uyên thâm của ngọn bút. Bởi vậy thơ ông có sức hấp dẫn, truyền cảm, và neo đậu trong lòng độc giả. bài thơ đã hơn 300 năm mà khi đọc lên cứ nghe như mới, cứ đắm cứ say. Nên thơ ông luôn được bảo tồn và thăng hoa. Áng thơ đó đã vượt qua bao lớp bụi thời gian để trường tồn xuyên thế kỷ. Đúng như nhà thơ Phan Văn Thắng đã từng viết:
Những tưởng thơ xưa đã lỗi thời
Nào ngờ phát triển mãi sinh sôi
Cha ông thuở trước gieo vần đẹp
Con cháu ngày nay dệt


NGUYỄN THỊ THỰC
Sơn Lễ, Hương Sơn, Hà Tĩnh
Hội viên thơ Đường Việt Nam
Ảnh đại diện

Quá Vũ Xương thành đề Hoàng Hạc lâu (Đinh Nho Hoàn): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Nhớ chim cô cảnh dựng ngôi lầu
Trên núi mấy vòm Hoàng Hạc lâu
Sóng nước sông Xương trăng lấp loáng
Rặng cây bãi Hán gió lao xao
Kê vàng nồi cũ lò bùng đỏ
Táo chín vườn nay thơ vút cao
Dãy Phượng gần kia sao cưỡi được?
Xem tài thổi sáo có ai nào!

Ảnh đại diện

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lý Bạch): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Bạn cũ lên đường tại Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Trường Giang vẫn chảy bên trời thẳm
Bóng chiếc buồm đơn bích một màu.

Ảnh đại diện

Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Người xưa cưỡi hạc biệt về đâu
Hoàng Hạc nơi đây toạ một lầu
Chim đã liệng chao nào trở lại
Mây còn lảng vảng mãi về sau
Hán Dương trời tạnh cây soi bóng
Anh Vũ cỏ thơm bãi thắm màu
Xẩm tối thẫn thờ quê khuất nẻo
Trên sông khói toả gợi tâm sầu.

Ảnh đại diện

Chu thứ Hoàng Châu Vương Chính đường xuất chỉ cầu thi tức khắc tặng chi (Đinh Nho Hoàn): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Ngỗng thu hộ tống đoàn thuyền
Lên cao nhìn nước in nền trời xanh
Ba ngàn hộ ấp hân hoan
Nối nhau trăm vạn nhà dân dặm trường
Phía sau sông nhánh Ngư Dương
Ba Thục phía trước hạc vươn cánh vờn
Bò vàng ăn mạ nhà dân
Tích Hàn công tử huân thần phải ghi

Ảnh đại diện

Quá Trường Sa thành (Đinh Nho Hoàn): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Xanh biếc sông Tương bóng xế tà
Thuyền kề bãi cát sóng lan xa
Lên lầu vạt áo theo chiều gió
Lướt nước con thuyền tựa nhánh hoa
Tiếng hát trong thanh như gõ ngọc
Khói làn mờ nhạt gợi pha trà
Mưa đêm chuông vẳng đài cao vắng
Họ Tống bao đời đã trải qua?

Ảnh đại diện

Quá Tương Âm huyện đề Thanh Thảo hồ (Đinh Nho Hoàn): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Tiêu chặn trước, Tương vắt ngang
Ngàn năm soi bóng mênh mang bầu trời
Chim về tần, ngổ gió lay
Khi triều rút, sậy như cây giáo dài
Ba Khưu cá quý dậy mùi
Dưới trăng thu lạnh chạnh người khách qua
Nhìn trời bất tận nhớ nhà
Thơ văn lắng đọng sâu xa mặn nồng

Ảnh đại diện

Quá Vũ Xương thành đề Hoàng Hạc lâu (Đinh Nho Hoàn): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Nhớ chim, núi Hạc xây lầu
Trên vòm lầu lại vòm cao mấy tầng
Sát lầu trăng sáng Xương Giang
Rèm lay gió thoảng Hán Dương ráng hồng
Nồi kê ngòi ngự cháy bùng
Vườn thơ táo đỏ chín trong nắng vàng
Phượng Hoàng sơn, cưỡi được chăng
Còn tài thổi sáo ai bằng lão phu

Ảnh đại diện

Quá Quế Lâm thành (Đinh Nho Hoàn): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Lâng lâng đi giữa Tương Tư
Quế Lâm sông nước lững lờ thuyền trôi
Chưa mòn nhát kiếm tướng tài
Đàn ngu vẳng tiếng năm dây bổng trầm
Thiết lô trăng chiếu vẩy thêm
Vòi Voi nắng hắt lông chim ánh vàng
Nào trong phủ viện các quan
Ai xem cảnh đẹp sẵn sàng chờ đây

Ảnh đại diện

Quá Hoàng Châu thành đề Đông Pha tiên sinh từ (Đinh Nho Hoàn): Bản dịch của Đinh Nho Hồng

Hoàng Giang trăng kéo dài thêm
Hương nhang dâng tiến đền Tiên cháy hồng
Nhã ca vang động Lục Dương
Cành tre sà xuống giao long, bút mòn
Rồng ca, uống rượu giữa đồng
Hạc bơi, thuyền lướt trên sông sóng tràn
Lên Tiên giày đỏ quần vàng
Nào Thanh miêu bị oán than nợ nần

Trang trong tổng số 11 trang (105 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: