Trang trong tổng số 900 trang (8996 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Tự (Phan Huy Ích): Bản dịch của Đào Phương Bình, Đỗ Ngọc Toại, Hoàng Tạo, Nguyễn Ngọc Nhuận

Thơ là để nói chí hướng. Bậc sĩ quân tử lúc nhàn rỗi miêu tả tâm tình, ghi lại hành trạng, thường thường biểu hiện ra thiên chương, truyền lại cho người sau, dùng làm niên phả, để lại dài lâu. Đó thực là kho báu trong nhà, đâu chỉ để phô bày ý tứ văn vẻ, phẩm bình phong vật mà thôi.

Tôi thuở nhỏ theo đòi cử nghiệp, vốn vụng về với việc làm thơ. Kịp đến tuổi đội mũ mới bắt đầu xem rộng ra các tác phẩm xưa, rồi võ vẽ thôi xao, nhưng viết ra thì khô khan, thường hổ thẹn vì việc học làm thơ khó khăn. Lại vì sớm tham dự việc triều chính, lạm dự công việc cơ yếu, không được rỗi rãi để gọt câu luyện vần. Đến khi trị nhậm trấn Thanh Hoa lần thứ hai, khi trèo núi ngắm sông, ý tưởng siêu thoát, dần dần xúc cảm cao hứng ngâm nga. Kế đó trải bao biến đổi cuộc đời, vận nhà gieo neo, tình ưu uất cảm khái, nên mượn chuyện ngậm vịnh để tiêu khiển, thế rồi chương cú cứ dần dần nhiều lên.

Đến năm Nhâm Tuất (1802), nhà riêng bị cháy sạch, đến một chữ cũng không sót lại, sách vở tản mác khắp nơi, tôi cũng chưa có khi nào rỗi rãi để sao chép lại.

Hơn mười năm lại đây, vì phiêu dạt về miền tây nam, mở trường dạy học để sinh sống hàng ngày, hồi tưởng chuyện thơ văn trước đây mơ mòng tựa mộng. Tôi cho rằng việc sưu tầm ghi chép lại, là việc của con cháu sau này.

May mắn thay tuổi già chưa đến nỗi lẩm cẩm, năm Giáp Tuất (1814), ở Thiên Lộc tôi nghỉ dạy học đã lâu, trong cảnh nhàn thú, bèn uỷ thác cho các con đi khắp nơi tìm thơ văn ngâm vịnh khi xưa, hoặc còn trong trí nhớ, hoặc tìm được trong những bản sao của bà con bạn bè, rồi đưa dần lên tôi xem. Tôi bèn để ý san thuật, tuỳ theo năm tháng sắp xếp thành từng loại, những bài thơ tản mác nhớ lại mà chép ra đặt tên là “Dật thi lược toản”; còn những phần tìm được nguyên bản thì sao chép lại và giữ nguyên tên cũ, mà gọi chung là “Dụ Am ngâm lục”, chia ra thành 6 sách, xấp xỉ 600 bài thơ, đại khái số thơ này còn được non nửa. Tôi đưa đứa cháu ngoại tên là Bảo chép lại. Mùa xuân năm nay (1815), cuốn sách chép xong, các con tôi đều tới xem, rồi mang đến xin tôi viết lời tựa.

Nghĩ rằng: Thơ văn tôi viết ra nhiều, trong đó những bài đáng lưu truyền thì còn ở trên cửa miệng mọi người, những bài không đáng lưu truyền cũng may mà mất mát, nay sưu tập được để giúp cho việc kê cứu, thì cũng là điều may mắn cho con cháu rồi. Thảng hoặc năm tháng còn được kéo dài, khi cao hứng ngâm nga, nếu thêm được tập thơ nhỏ nào khác nữa thì cũng là điều đáng mừng ngoài ý muốn của mình.

Các con hãy thu thập chép lại toàn bộ, cất giữ trong tráp trong tủ, đợi khi tìm được đầy đủ các mục của văn tập sẽ giữ làm của báu trong gia đình. Còn như khoe khoang vần luật, truyền khắp mọi người thì chẳng phải là mục đích làm thơ của ta. Vậy làm bài tựa này.

Ngày mồng một tháng ba năm Ất Hợi (1815), thời hoàng triều Gia Long thứ 14. Dụ Am Khiêm Thụ Phủ đề tại mái tây chùa Hồ Thiên.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Cam đường 1 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Rườm rà cái cây cam đường
Ấy quan Thiệu Bá xưa thường nghỉ ngơi
Chớ vin! chớ bẻ! ai ơi
Chớ ai cắt lá! chớ ai đẵn cành!


Bài dịch này Tản Đà dịch gộp cả ba chương thiên Cam đường.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thái tần 1 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Đi hái rau tần
Ở gần bến khe
Đị hái rau tảo
Ở ngòi bên kia
Đựng vào những cái giỏ tre
Cái âu cái chã, ấy về nộm dưa
Dâng lên dưới cửa nhà thờ
Có cô bé nhỏ bây giờ đứng coi
Là người thành kính hơn ai.


Bài dịch này Tản Đà dịch gộp cả ba chương thiên Thái tần.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thảo trùng 1 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Con thảo trùng nó kêu
Con phụ trung nó nhẩy
Mong chàng chẳng thấy
Áy náy nguồn cơn
Chèo lên trái núi Nam sơn
Ta hái rau quuết
Lòng lo khôn xiêt
Ta hái rau vi
Lòng ta thương bi
Mong chàng, chàng hãy còn đi
Mong chàng chưa thấy, ta thì nhớ thương
Bao giờ cho thấy mặt chàng
Cho ta vui vẻ nở nang tấm lòng.


Bài dịch này Tản Đà dịch gộp cả ba chương thiên Thảo trùng.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thái phiền 1 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Rau phồn ở bến nước trong
Hái về làm việc trong cung công hầu
Như ai chăm chắm mái đầu
Nửa đêm gà gáy chực hầu nơi công
Đầu ai mái tóc thung dung
Khoan thai rằng ở nơi công ra về.


Bài dịch này Tản Đà dịch gộp cả ba chương thiên Thái phiền.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thước sào 3 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Con thước có tổ
Con cưu ở đông
Cô về nhà chồng
Xe cưới hàng trăm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thước sào 2 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Con thước có tổ
Con cưu ở không
Cô về nhà chồng
Xe tiễn hàng trăm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Thước sào 1 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Con thước có tổ
Con cưu ở trong
Cô về nhà chồng
Xe đón hàng trăm.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Lân chi chỉ 1 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Chân con lân
Trán con lân
Sừng con lân
Công tử có nhân
Công tôn, công tộc có nhân
Con lân chừ con lân!


Bài dịch này Tản Đà dịch gộp cả ba chương của thiên Lân chi chỉ.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Nhữ phần 3 (Khổng Tử): Bản dịch của Tản Đà

Con cá mè, sao mày đỏ đuôi!
Việc vua như lửa đốt sôi trong lòng
Thôi thời như lửa đốt lòng
Có cha có mẹ gần cùng với ta.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Trang trong tổng số 900 trang (8996 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: