Trang trong tổng số 2 trang (19 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Áo hạ vàng (Hư Vô): Nhát Chém Hư Vô. Tô Đăng Pha

“Nắng trong veo…thấu lụa là
Áo em mỏng quá, lòng ta gập ghềnh
Dù là một thoáng lênh đênh
Đã nghe mùa hạ chảy trên phím đàn
Từ em tóc xoả sang ngang
Hàng cây nghiêng nón rộn ràng tiễn nhau”

-Hư Vô-
Bài thơ đọc lướt qua, có vẻ như là của gã si tình, nhưng nếu đọc kỹ, đó là bài thơ của người đã ngộ đạo. Nét độc đáo là Trí Tuệ sáng ngời của Hư Vô Thi Sĩ đã đạt tới cảnh giới “trạm nhiên thường tịnh” hay là “định trong động”. Đoản thơ là một bài Pháp rất thâm sâu và tuyệt vời nếu ta chịu đăm chiêu hơn chút nữa trong từng lời từng ý. Bây giờ thử ta đọc lại thong thả, thêm một lần nữa:
“Nắng trong veo…thấu lụa là
Áo em mỏng quá, lòng ta gập ghềnh”

Chức năng của “nắng” là soi sáng, nắng lên xua tan màn đêm đen tối và đồng thời phơi bày tất cả vạn vật. Nói cách khác nắng là nền tảng căn bản cho sự nhận ra của cái đẹp. “Nắng trong veo” ở đây là một ẩn dụ, đó là biểu tượng cho trí tuệ “thấu” thị của Hư Vô Thi Sĩ.
Chỉ có Trí Tuệ của “nắng trong veo” mới có khả năng nhìn “thấu lụa là”, tức là bản chất tạm bợ mong manh, của đời sống “lụa là” mang tính chất hưởng thụ của các dục trong hiện tại của đại đa số con người ngày nay.
“Áo em mỏng quá, lòng ta gập ghềnh
Dù là một thoáng lênh đênh”

Trí Tuệ “thấu lụa là” chạm phải “làn áo mỏng”, kết quả là: “lòng ta gập ghềnh”? Té ra phản ứng của Hư Vô Thi Sĩ cũng không khác chi bao gã si tình khác ư? Có thật thế không?
Nhưng ở đây, các trạng từ “gập ghềnh”, “lênh đênh” của Hư Vô Thi Sĩ gợi cho ta hình ảnh gì? Có phải là một con thuyền đang lướt trên sóng? Thuyền tuy “gập ghềnh”, “lênh đênh”, nhưng thực ra vẫn đang lướt tới, đang đi đến mục đích đã được định sẵn. Hơn thế nữa có con thuyền nào mà lại không “gập ghềnh”, “lênh đênh” trên sóng nước? Điều quan trọng hơn hết không phải là không lênh đênh mà là không lạc hướng và không bị sóng nhận chìm. Còn việc “gập ghềnh”, “lênh đênh” là chuyện đương nhiên của thân phận con thuyền. Vì lẽ? Có lẽ trên đời này không hề có con thuyền nào không “gập ghềnh”, “lênh đênh” trên sóng nước cả. Vì thế sự cố gắng giữ cho thuyền không lênh đênh quả là một việc làm vô ích, sẽ không mang đến kết quả gì. Việc cần làm chỉ chăm chú sao cho khõi bị chìm để đi đến đích cần đến là được, hãy cứ để mặc cho con thuyền lênh đênh gập ghềnh trên sóng nước.
“Dù là một thoáng lênh đênh
Đã nghe mùa hạ chảy trên phím đàn”
Dù chỉ là một thoáng lênh đênh đó, cũng đủ cho bài thơ tuyệt vời này ra đời, cho độc giả gần xa, chia sẻ cái nhìn trí tuệ của Hư Vô Thi Sĩ: “Mùa hạ chảy trên phím đàn” là một ẩn dụ đẹp, một lối nói hoa mỹ cho sự hiện thân của bài thơ này, “phím đàn” hay bài thơ đều thuộc lãnh vực Thi Ca. Nó là tinh tuý của một cuộc tương phùng rất hy hữu: Sự Tương Phùng của “Trí Tuệ Nắng Trong Veo” của Hư Vô Thi Sĩ và “Áo Mỏng Lụa Là” của nhân gian. Kết quả của sự tương phùng này chính là một dòng chảy thi ca của “mùa hạ chảy trên phím đàn”, tức là bài thơ tuyệt vời này đây!
“Từ em tóc xoả sang ngang
Hàng cây nghiêng nón rộn ràng tiễn nhau”

Ô hay, gặp gỡ tương phùng để rồi tiễn đưa vốn và chuyện xưa như trái đất. Như hai mặt của một đồng tiền, không hề có cuộc tương phùng nào không kết thúc với chia ly! Nhưng thái độ lúc chia ly của Hư Vô Thi Sĩ mới là điều đáng nói: “Hàng cây nghiêng nón rộn ràng tiễn nhau”
“Rộn ràng” đó là trạng từ chỉ niềm vui. Nhưng chia ly có gì vui? Nhất là khi chia ly vì em đã sang ngang? Chỉ khi nào có được Trí Tuệ “nắng trong veo” thấu thị bản chất của “tương phùng” và “ly biệt” thì lòng mới có thể “rộn ràng tiển nhạu” lúc chia ly được! Nếu không thì:
“Ngày nhà em pháo nổ, Anh cuộn mình trong chăn
Như con sâu làm tổ, Trong trái vải cô đơn
Ngày nhà em pháo nổ, Tâm hồn anh nhuốm máu
Ôi nhát chém hư vô, Ôi nhát chém hư vô”

(Phạm Văn Bình)
Vậy đó, ôi nhát chém hư vô! Nhưng ở đây Nhát Chém của Thi Sĩ Hư Vô là nhát chém của Trí Tuệ, không làm tâm hồn anh nhuốm máu mà lại có khả năng đưa đến việc “rộn ràng tiễn nhau” thay vì phải “cuộn mình trong chăn.” Đó là hai thái độ tương phản của hai tâm thức trên cùng một sự kiện “sang ngang”!
Nhát chém hư vô trong bài thơ này không nhận chìm con thuyền mà đó là vết chém của Trí Tuệ. Đó chính là sự cắt bỏ, sự từ bỏ của tất cả những gì thuộc lãnh vực của kinh nghiệm nhận thức trong “một thoáng lênh đênh” của đời người.
Xin Cám Ơn Hư Vô Thi Sĩ đã điềm nhiên đem tinh hoa Phật Giáo gói ghém trong bối cảnh thơ tình cho nhân gian dễ thể nhập.

Tô Đăng Khoa


Ảnh đại diện

Áo hạ vàng (Hư Vô): Áo Em Mỏng Qúa Lòng Ta Gập Ghềnh, Vũ Thanh Hoa

Tôi đọc thơ lục bát của Hư Vô đã lâu và mỗi khi có dịp đọc lại, tôi lại như thấy mình lạc vào những giấc mộng vàng, nơi có bóng trăng khuyết ảo mờ, những cơn mưa mùa hạ dịu dàng và những dáng hoa thấp thoáng lụa là… Một khung cảnh Miền Nam xưa đẹp và buồn trong ký ức người xa xứ. Hư Vô định cư ở Sydney (Úc), có lẽ trong lòng anh còn nhiều nỗi khắc khoải về cố hương: Đâu biết trước đời nhiều dâu bể/Chạy loanh quanh tóc đã hai màu/Tìm được lối về trăng rơi xuống đất/Chúng mình mất hết, chỉ còn nhau… (Chúng mình Mất Hết, Chỉ Còn Nhau – Hư Vô)
Mời bạn đọc chùm thơ Lục bát của nhà thơ Hư Vô với Vũ Thanh Hoa:

Vài dòng về tác giả:

Hư Vô

Tên thật:
Hùng Võ
Sinh quán: Việt Nam

Trú quán:
Sydney, Australia

Sinh hoạt văn học nghệ thuật:
Chủ biên Quán Thơ Hư Vô trên Bán Tuần Báo Việt Luận Úc Châu

Tác phẩm:
-Thành Phố Anh Đến, Thơ 1974
-Chúng Mình Mất Hết, Chỉ Còn Nhau, Thơ 2007
-Tuyển Tập 6 Nhà Thơ Úc Châu, Thơ 2010, (in chung với 5 tác giả khác)
-Người Tình Hư Vô, Thơ 2011
-Người Tình Hư Vô, CD 2011 (gồm 12 bài thơ được phổ nhạc bởi Phạm Quang Ngọc)

Đang in:
– Lưng Nguyệt, Thơ 2015
– CD Còn Có Chút Em (Tình Ca Hư Vô – Anh Bằng)

Sẽ in:
– Đường Vào Bể Dâu, Hồi Ký

ÁO XUÂN THÌ

Ơn em,
áo Tết đã vàng
Đàn chim vỗ cánh dung nhan
dậy thì
Tôi về mất dấu
thiên di
Đường năm bảy ngả biết đi
lối nào?

Vườn xưa
nắng ở trên cao
Bóng nghiêng chưa tới lối vào
áo em
Cảm ơn,
phố vẫn trinh nguyên
Để tôi giấu kín tôi riêng
hình hài.

Đường nào
mái tóc chẻ hai?
Nhánh chia Đề Thám cho
dài Lý Bôn
Từ em,
đôi mắt biết buồn
Áo bay
cuốn góc linh hồn tôi theo.

Tay trần che giấc
chiêm bao
Dáng xuân mù mịt tơ nhầu
đáy gương
Lối về
mất dấu uyên ương
Tôi nghe đã tới cuối đường
bơ vơ…

EM. MÙA THU LỤC BÁT

Từ nay em khóc một mình
Đâu còn tôi dỗ tội tình môi em
Góc phòng mù mịt, tối tăm
Bỏ quên một chỗ em nằm trống trơn.

Mùa thu đã mất linh hồn
Tóc tơ buông thấp cho còn thơm tho
Gối chăn cũng biết so đo
Em ôm cái bóng nằm co đợi chờ.

Từ đêm trăng khuyết tình cờ
Trong mắt em bỗng bất ngờ đổ mưa
Ướt cành liễu rũ vườn xưa
Thả câu lục bát cho vừa thu phai.

Còn nghe tiếng lá thở dài
Em quẩn quanh một hình hài như không
Trăm năm tôi vẫn nặng lòng
Hạt mưa rớt xuống cong vòng bóng em…

ÁO HẠ VÀNG

Em qua bóng đổ hiên ngoài
Đàn chim sáo nhỏ vụt bay cuối ngàn
Giật mình hạ rớt thênh thang
Nở trên nhánh tóc em vàng cánh hoa.

Nắng trong veo, thấu lụa là
Áo em mỏng quá lòng ta gập ghềnh
Dù là một thoáng lênh đênh
Đã nghe mùa hạ chảy trên phím đàn.

Từ em xoã tóc sang ngang
Hàng cây nghiêng nón rộn ràng tiễn nhau.
Em mang mùa hạ qua cầu
Ta như khách lạ tìm đâu bóng mình

Bên đời nắng có lung linh
Để em giấu kín chút tình phôi pha
Còn thương góc phố quê nhà
Vàng em áo hạ, buồn ta mưa về…

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Quang Ngọc phổ nhạc với cùng tựa đề, hát lần đầu tiên bởi ca sĩ Mai Thiên Vân.

TƠ MƯA

Mưa qua khuất lối em vào
Ta gom chẳng thiếu hạt nào, cho em!
Thênh thang dòng tóc bay nghiêng
Kết mưa trổ nhánh oan khiên giữa đời.

Lòng như giọt nước chẻ đôi
Chở sông lên núi nằm phơi nỗi buồn
Trăm năm ngủ với cội nguồn
Để chiêm bao được ở luôn cõi người.

Nửa em còn đọng trên môi
Có nghe son phấn bồi hồi bóng gương?
Nghiêng vai ta gánh vô thường
Mang núi xuống biển trải đường em qua.

Mưa đan kín lối lụa là
Dáng em chưa thấy đã xa muôn trùng
Tơ trời dẫu có bao dung
Cũng đâu buộc nổi tận cùng bể dâu…

CHÀO EM THÁNG 10

Chào nhau một nụ tháng 10
Mùa xuân nở giữa môi người ngọt ngây
Cảm ơn em mái tóc dài
Thả tôi lêu lỏng trên vai một thời.

Chào nhau nụ ấm hơi người
Cảm ơn em đã vì tôi biết buồn
Môi tròn theo dấu phấn son
Áo chia hai vạt tôi buồn một bên!

Ơn em xin nguyện đáp đền
Thì tôi cũng được chút huênh hoang rồi!
Trả nhau chưa dứt nợ đời
Mà tim tôi đã tơi bời đó em.

Nợ nần chồng chất nặng thêm
Cảm ơn em vẫn còn kềm chân tôi
Chào em môi đỏ tháng 10
Thơ tôi trải xuống em ngồi cho êm…

HƯ VÔ

Vũ Thanh Hoa

Ảnh đại diện

Lưng nguyệt (Hư Vô): Dấu Tình Nhân Còn Trên Lưng Nguyệt. Tuỳ bút Trần Sương Lam (Phần 2)

Không gian biến đổi từ “vườn khuya” mênh mông đến “chỗ nằm” thật hẹp. Hẹp nhưng không có nghĩa là ấm áp hơn mà ngược lại vì cái lạnh đã định hình, đã lạnh từ hơi người còn ấm, lạnh đến chiếc bóng lẻ loi, chữ nghĩa biến hoá đến tinh vi, thời gian dường như không theo kịp. Câu chữ làm ta hụt hẫng, lao đao mà giọng điệu lại ngất ngây, lừ đừ, chầm chậm, mang mang. Khổ thơ thể hiện đầy đủ ý niệm về cõi vô thường khiến người đọc suy ngẫm thoáng giật mình và riêng tôi nhận thức được hình như cả đời tôi (chắc cũng không ít người) luôn sống trong vọng tưởng. Bây giờ có lẽ tôi mới hiểu một câu thơ của Xuân Diệu:

Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!
(Giục Giã, Xuân Diệu)

Tình là vô thường nên đến rồi đi nào ai biết vì không thể chiếm lĩnh nó nên khi mất với bao người là nỗi đau không tuổi. Và với nhân vật trữ tình, điều này có lẽ đúng bởi vì chính tình yêu đã là muôn đời không có tuổi!

Hư Vô có cách diễn đạt niềm nhớ, nỗi đau nhẹ mà thấm, mà sâu. Đẹp nhất của người con gái, theo tôi chính là mái tóc. Mái tóc là biểu tượng cho tuổi, cho tình, cho những ấp yêu, mong nhớ… Thi nhân lại chọn sợi tóc ngay chỗ nằm vừa tạo được hương, vừa tạo được hình, cái nhớ như vậy đã đủ đầy, trách sao mà cả đời không thương, không nhớ! Sợi tóc phải chăng vì thế tạo hình sắc, tạo thần thái cho khổ thơ để tôi cảm nhận tình yêu đã mất nhưng mùi hương, sợi nhớ vẫn còn vẫn mênh mang giữa đất trời. Sợi tóc hay sợi nhớ, sợi thương như một ám ảnh của khúc nguyệt cầm tiếp tục vang lên trong cõi nhớ: “Em đi, bỏ lại cả trăm năm”.

Câu thơ bảy chữ, có đến bốn thanh bằng nhưng không nhẹ nhàng, thanh thản mà buốt đau. “Đi, bỏ lại” câu chữ diễn tả một sự rời bỏ nhưng còn lại, còn lại nỗi ngậm ngùi, trơ trống “cả trăm năm”, trăm năm với con người là dài, dài lắm vậy mà em đã bỏ đi không tiếng hò hẹn, chẳng lời hứa tương phùng, thì quả thật là quá tê tái và đau thương. Câu thơ ngân dài nỗi tuyệt vọng, u uẩn và đó cũng là âm thanh từ cùng tận vang lên khúc tình tan. Tiếng nức nở của nguyệt cầm trong trăng càng tê tái lạnh, kiếp người cô đơn trong nỗi đau của tình tuyệt vọng tạo một ám ảnh, day dứt khôn nguôi. Khổ thơ làm tôi nhớ đến bài thơ của Du Tử Lê:

“ôi nhỏ có buồn như ta không
tuổi thơ nhang khói đã hoang tàn
hồn ta như miếu cô quạnh lắm
xa người như xa cả quê hương!”
(Như Xa Niềm Yên Vui, Du Tử Lê)

Hình như trong thi ca khi tình yêu bay đi, nỗi đau là chất ngất nhưng mỗi người có cách thể hiện khác nhau nhưng theo tôi, họ cũng đã từng sống trong khoảnh khắc của nỗi ngậm ngùi, của những đớn đau đến dật dờ thân xác và có lẽ vết thương lòng vẫn mãi hằn theo năm tháng để trở thành những giọt lệ trong thi ca. Tôi yêu kỷ niệm của thi sĩ chỉ là một sợi tóc mong manh, nhỏ nhoi (cái cuối cùng còn lại của thời yêu chỉ còn có thế) nhưng cái ám ảnh của sợi tóc cực lớn, nó vắt ngang cả trăm năm của đường tình chông chênh, lận đận.

Tôi đã từng có bao đêm không ngủ để mở nỗi buồn riêng, để rồi những dòng lệ cứ tuôn chảy trong nỗi nhớ khôn nguôi để rồi sau đó là lời tự vấn: vì sao cứ nhớ mãi? để buồn mãi, để nụ cười bỏ quên mình từ rất lâu nhưng tôi biết hỏi chỉ là hỏi vì trong lòng tôi câu trả lời mãi hiện diện: nỗi nhớ bây giờ chỉ còn nỗi ngậm ngùi của sự chia ly. Hư Vô cũng có những đêm thức với những trăn trở của riêng mình:

Thì tôi cũng có đêm cùng tận
Để giấu buồn riêng nỗi nhớ người.
(Hư Vô)

Đêm cùng tận là đêm cuối cùng kết thúc một năm hay đêm cùng tận của đời người hay đêm sau cuối của kiếp tình hiểu sao thì cũng cùng một ý nghĩa: Nỗi nhớ không bao giờ mất đi chỉ khác là nó không còn được phô bày mà đã trở thành nỗi buồn riêng của nhân vật tôi. Đã là riêng thì không thể chia sẻ vì thế mà câu thơ dậy lên một nỗi thê thiết, khắc khoải: kiếp tình bao giờ cho quên, khối u tình bao giờ cho tan, không gian ngoại cảnh, khoảng trống nội tâm giờ là vực sâu thăm thẳm sao lấp cho đầy, sao sầu cho vơi, cho nhạt… Bóng tối lại bủa vây, trăng không còn rõ mặt chỉ là khoảng không, là chỗ bắt đầu cho một chuyến khởi hành vào cõi đêm vô tận. “Em đi, mang theo nửa vầng trăng trên lưng như một dấu tích mà tình yêu đã hoài thai từ tiền kiếp, hoá thân vào áng mây cao vút của sự nuối tiếc ngút ngàn, để rồi bàng hoàng chìm xuống đáy biển đêm lạnh ngắt, mà nghe ngọn sóng còn giẫy giụa trong lòng. Thì vầng ấy có còn chăng cũng chỉ là một kỷ vật mà cả đời em mang theo như một dấu tích tình nhân còn in trên lưng nguyệt”. (Trích lời mở đầu của tập thơ Lưng Nguyệt – Hư Vô – Nhà xuất bản Ilu 2015).

Mà nguyệt là hồn của trăng, là nhan sắc của mùa thu, là men của rượu, là trái tim của người tình mà thi nhân không bao giờ muốn đánh mất:

Tay lùa bóng tối vào lưng nguyệt
Lấp cho đầy vực khuyết tim tôi.
(Hư Vô)

Nhưng trăng tàn, nguyệt khuyết, tình tan, trái tim hư hao, thì bóng tối nào lấp cho đầy vực khuyết trong tim… Có lùa bóng tối để tạo nhịp thơ nhanh hơn, cũng chỉ là một nỗ lực, một sự đào thoát quá khứ trái ngang, để mong con tim được lấp đầy hạnh phúc. Nhưng càng muốn lấp đầy thì nỗi sầu mỗi lúc như thể lớn thêm, tan tành thành một vực thẳm không chân!

Khúc nguyệt cầm có còn ngân vang chắc gì đã động thức nổi một vầng trăng để soi bóng thi nhân bước đi trong cõi tình mù mịt, ta đang lang thang trong ngả đời muôn nẻo có giống chăng là cùng trong cuộc tỉnh say. Tỉnh để quên và say để nhớ, chất men đời, men tình theo chén rượu lại đưa ta về, đưa thi sĩ về lối thăng trầm. Trong hư ảo của tiếng nguyệt cầm ma mị, trong men rượu ân tình kia, em hiện về lộng lẫy giữa thinh không đã tạo nên khổ thơ cuối đa sắc màu:

Em về soi lại dung nhan cũ
Thấy có còn tôi giữa muôn trùng?
Từ đêm rượu ướt đôi môi đỏ
Nhỏ xuống hư vô dấu nguyệt trần…
(Hư Vô)

Khổ thơ điểm một chút diện mạo của Đường Thi làm chân dung em bỗng mê hoặc, yểu điệu, liêu trai: “Em về soi lại dung nhan cũ” đã óng lên một dấu nguyệt trần lồng lộng, màu sắc cho khổ thơ thêm rực rỡ, chói loà. Nhan sắc em vì thế càng kiêu sa, kỳ ảo lạ lùng! Trong không gian của men, của hương, của ánh sáng, âm nhạc (khúc nguyệt cầm) tôi và em là sự đối nghịch: có- không (em dung nhan/ -tôi- muôn trùng, hư vô). Ranh giới đã phân định rõ ràng. Em thuộc về ánh sáng, tôi thuộc về bóng tối, hư vô. Hai thế giới, hai con đường thẳng song song chỉ có thể được gặp nhau ở cõi vô cùng! Dường như cả khổ thơ không vần nhưng vẫn tạo ra hiệu quả nghệ thuật bởi cách viết tương phản, cách dùng một loạt từ Hán Việt làm ý thơ trang trọng, tao nhã, cổ kính, phảng phất nỗi buồn da diết vốn có của Đường Thi.

Sau những thăng trầm của đời sống, chàng lãng tử chỉ mơ một lần em quay về dĩ vãng. Trong hoài niệm ấy em có thấy tôi, có nhớ tôi?

Thấy có còn tôi giữa muôn trùng?
(Hư Vô)

Dấu chấm hỏi cũng lạc lõng như nhân vật trữ tình ngóng đợi câu trả lời “Thấy có còn tôi” Tại sao thi sĩ lại đặt mình lọt thỏm vào “giữa muôn trùng?” với một sự hoài nghi: em có còn thấy tôi. Hỏi nhưng chính lại là câu trả lời: vì tôi đã là muôn trùng, là Hư Vô (là không, dưới cả không, là không gì hết.) Thi sĩ đã cho mình lìa xa em, một sự lìa xa trọn vẹn. Nỗi đau đã hoá thân tôi. Em đi là hết rồi, không còn gì nữa rồi. Tôi lại cảm nhận âm thanh của khúc nguyệt cầm vẫn réo rắt không thôi, khúc đàn cất lên giữa muôn trùng, vọng từ cõi hư vô bàng bạc nỗi nhớ để gọi trăng về. Ảo khúc cất lên, hình sắc vụt quay lại:

Từ đêm rượu ướt đôi môi đỏ
Nhỏ xuống hư vô dấu nguyệt trần…
(Hư Vô)

Rượu lại rót, môi lại ướt. Màu đỏ của rượu, của môi non đã rực rỡ bức tranh tình yêu. Tố nữ vẫn nguyên vẹn dung nhan ngày cũ. Nhưng khác xưa. Rượu để say và cạn chén để quên em, quên tình xưa nhưng càng cố quên thì càng cháy bỏng những khát khao. Tôi cho rằng thi nhân đang quằn quại khát khao tình xưa, người xưa và mơ dấu môi yêu nhỏ giọt tình xuống cõi hư vô để ghi lại “dấu tích trần ai” của một thời tình đã cũ. Tình yêu lại tượng hình, lại lên ngôi, màu yêu lại dậy thức trong khúc nhạc trăng huyền diệu. Cõi yêu được thi sĩ chắp đôi cánh bay về nơi- một tôi- một rượu- một khúc trăng sầu. Dòng chảy của âm thanh bát ngát, thênh thang lối tình giữa tiếng nguyệt cầm còn lênh đênh, lận đận. Không gian trở thành đêm, hương xưa tan thành rượu, sắc màu của đôi môi đã đẳm ướt trên lưng nguyệt cũng bàng hoàng theo tiếng thét gào từ lồng ngực thật lạc lõng, mênh mông, mơ hồ trong cõi mộng, cõi nhớ của thi nhân làm ta tiếc nuối và hụt hẫng (cái đẹp luôn chóng phai tàn). Còn lại chăng chỉ là cái ảo thức giữa trăng và nguyệt. Nguyệt của hồn và Trăng của nhan sắc chơi vơi, huyền diệu để làm cho khúc đàn trăng thêm mơ màng, sương khói.

Thiên nhiên vô hạn nhưng hữu tình, con người hữu hạn nhưng lại vô tình, em đi không trở lại, em đi mang theo cả hồn tôi. Từ giã em, tôi chỉ còn là hư vô, chỉ tôi và tôi giữa muôn trùng. Từ đêm in dấu những cơn say long lanh như giọt rượu, mềm môi vẫn đắng cay, vẫn nhói lòng trong nỗi đau quá khứ. Nỗi đau đã định hình, để từng đêm vẫn nhỏ xuống tôi lận đận dấu tình sầu… Khi yêu, tiếng đàn thăng hoa thành khúc nguyệt cầm, khi tình yêu đã khắc ghi trên lưng nguyệt là khi vầng trăng cô độc đã in đậm lên cõi nhân gian một “dấu nguyệt trần”. Giữa cái không và có, Thi sĩ chiếm lĩnh cả không gian, cả khổ thơ để mọi hình sắc đều bị xoá nhoà để chỉ tồn tại duy nhất “hư vô”. Hư vô là kết thúc cuộc đời nhân vật trữ tình tôi, kết thúc một chuyện tình, kết thúc thi phẩm. Lấy cái giới hạn vô biên làm kết thúc, thi sĩ cho ta cảm nhận Lưng Nguyệt là bóng dáng của những ám ảnh về nỗi đau của kiếp tình, kiếp người với những được mất có gì vui?

Bài thơ đã kết thúc nhưng tôi còn chơi vơi, tôi đang nương theo trăng về lại cõi đời tìm chút ấm áp của hương tình yêu một thuở để cảm nhận ra một điều là yêu thật không dễ nhưng đã yêu mà phải quên thì quả thật là khổ đau. Tình là sợi dây oan nghiệt nhưng ta vẫn thích trói mình vào nên mãi mãi nỗi đau của tình yêu không bao giờ yên nghỉ. Hư Vô đã gửi đến người đọc một nỗi đau diễm tuyệt, cho người yêu thơ đi qua thi phẩm vẫn nhớ mãi sợi tóc vướng ngang lưng nguyệt, mà cả đời không có lối để bước ra..

Trần Sương Lam
August, 2018

Ảnh đại diện

Lưng nguyệt (Hư Vô): Dấu Tình Nhân Còn Trên Lưng Nguyệt. Tuỳ bút Trần Sương Lam (Phần 1)

Trăng là nguồn đề tài vô tận của bao thi sĩ. Với Nguyệt Cầm, Xuân Diệu đã đưa trăng thành tiếng đàn, ánh nhạc:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần,
(Xuân Diệu)

Với Hàn mặc Tử, ông mơ, say, ôm trăng mà ngủ:

Ta không nhấp rượu
Mà lòng ta say
Vì lòng nao nức muốn
Ghì lấy đám mây bay
Té ra ta vốn làm thi sĩ
Khát khao trăng gió mà không hay
(Hàn Mặc Tử)

Với riêng tôi, trăng là nguồn sáng vô tận, soi tỏ những đêm trời tối để hồn dật dờ giữa những nhớ quên, những nỗi đau, những hạnh phúc thoáng qua rồi lịm tắt. Trong ánh trăng vĩnh hằng của tạo hoá, tôi tìm thấy màu trăng thanh, màu tình yêu của thơ Hư Vô trong “Lưng nguyệt”:

Lưng Nguyệt

Nửa đêm pha rượu vào nhan sắc
Vườn khuya đã động khúc nguyệt cầm
Mùa thu như thoáng chiêm bao tới
Theo bước em qua lối thăng trầm.

Hơi người còn ấm quanh chăn gối
Tôi ôm cái bóng lạnh chỗ nằm
Trở mình hồn vướng ngang sợi tóc
Em đi, bỏ lại cả trăm năm.

Thì tôi cũng có đêm cùng tận
Để giấu buồn riêng nỗi nhớ người.
Tay lùa bóng tối vào lưng nguyệt
Lấp cho đầy vực khuyết tim tôi.

Em về soi lại dung nhan cũ
Thấy có còn tôi giữa muôn trùng?
Từ đêm rượu ướt đôi môi đỏ
Nhỏ xuống hư vô dấu nguyệt trần…

Hư Vô

Vừa đặt bút vào khổ thơ đầu, Hư Vô đã viết:

Nửa đêm pha rượu vào nhan sắc.
Vườn khuya đã động khúc nguyệt cầm
(Hư Vô)

Tác giả đã pha lẫn giữa thực và mộng. Quấn quýt, bâng khuâng, thấp thoáng, lay động, bàng hoàng, thảng thốt, như ngây, như say.

Đêm của bóng tối, của hồn mộng vốn đã ngập hương say, thi sĩ lại pha rượu vào nhan sắc. Rượu nhỏ xuống vầng trăng để say, để đắm, mà nhan sắc cũng dễ làm say đắm lòng người còn hơn cả rượu. Khổ thơ là sự cộng hưởng của cái đẹp nhan sắc, của men nồng rượu, của âm thanh tiếng nhạc. Không gian là sự mênh mông của thanh, hương, sắc. Cái đẹp đã lên ngôi lại bao trong đêm của đêm. Hoàn mỹ và toàn bích. Ta say đắm, lãng tử say đắm, ngất ngây. Câu thơ nghiêng ngả theo bước chân thi nhân. Cái đẹp toả hương từ bóng tối, huyền ảo, mộng, thực và hồn say. Thời gian đã ngủ, vườn khuya bỗng vang lên tiếng nhạc. Cõi đêm trở nên hoang dã lạ lùng. Cả không gian lung linh, dịu dặt với trăng thu với khúc nguyệt cầm. Bài thơ đẹp như nhan sắc, như khuôn mặt giai nhân. Ngôn ngữ đã thăng hoa trong thế giới ngọc ngà, long lanh, diễm ảo. Và kết lại hình tượng tuyệt mỹ của khổ thơ đọng mãi trong tâm trí tôi chính là khúc nguyệt cầm. Rượu giao bôi, đối ẩm của tình nhân mềm môi say, rượu thơm đánh thức nàng trăng dậy, trong bóng đêm kỳ diệu đang dạo khúc nguyệt cầm. Câu thơ cũng chấp cánh theo nỗi mơ màng, mênh mang, ẩn hiện đến bàng hoàng.

Khúc Nguyệt Cầm của Hư Vô gợi tôi nhớ đến bài thơ Nguyệt Cầm nổi tiếng của thi sĩ Xuân Diệu. Nguyệt Cầm của Xuân Diệu là sự giao duyên giữa trăng và nhạc tạo ra lối thơ tượng trưng đặc sắc.

“Bước vào Nguyệt Cầm là bước vào một thế giới linh lung. Nguyệt Cầm không bờ không bến. Tất cả đều diễm ảo, hư huyền, chơi vơi, vô định. Không còn cõi này, không còn cõi khác, không còn hiện tại, không còn quá khứ, không còn hữu thể, không còn vô thể”…(Chu Văn Sơn).

Khúc Nguyệt Cầm của Hư Vô, theo tôi, có lẽ là khúc đàn của tâm cảm, khúc đàn trăng vang lên đánh thức không gian khiến mọi sự vật bừng giấc. Bước đi của trăng dịu dàng, mơn man như tiếng đàn huyền hoặc dạo khúc mùa thu để nhân vật trữ tình giữa khung cảnh đêm thu xuất hiện thật lãng mạn, ngọt ngào, mê đắm trong ánh sáng, trong hương thơm, trong âm nhạc, trong trạng thái phiêu diêu. Phải chăng vì thế mà nhan sắc em trở thành hư ảo, mơ màng như giấc chiêm bao:

Mùa thu như thoáng chiêm bao tới
Theo bước em qua lối thăng trầm.
(Hư Vô)

Mùa thu là mùa được bao thi sĩ thi vị hoá. Sài gòn không có mùa thu chỉ có hai mùa mưa nắng nhưng tôi vẫn thích mùa thu vì lúc này tiết trời khá mát mẻ, nắng bớt gay gắt. Có lẽ vì thế, mùa thu đã thành mùa thương, mùa nhớ cho biết bao người, trở thành giấc mơ đẹp, thoáng chiêm bao mơ màng. Nhưng mùa thu của Hư Vô thì ngược lại, đã mon men theo em bước vào cõi nhân gian với những thăng trầm bàng bạc!

Khổ thơ là sự phối hợp trác tuyệt giữa ảo và thực, giữa đời và cõi vô biên. Vần bằng ôm hai câu chẵn tạo một cảm giác thâm trầm, thêm chất lạnh vào khổ thơ. Nhưng dù là cõi nào đi chăng nữa, cảm nhận của tôi khi bước vào vẫn là cảm giác lạnh. Lạnh, rất lạnh. Trăng lạnh, đàn lạnh, mùa thu lạnh. Có chăng một chút ấm áp toả ra từ chất men của rượu, của nhan sắc tạo cảm giác lâng lâng, say say nhưng không thực mà là mộng vì thi sĩ đã chìm đắm vào “thoáng chiêm bao” để dìu em qua “lối thăng trầm”. Chất đời bắt đầu lấn át chất mộng và trong thế giới ấy, có em và tôi:

Hơi người còn ấm quanh chăn gối
Tôi ôm cái bóng lạnh chỗ nằm
(Hư Vô)

Khuya lạnh, trăng lạnh, vườn lạnh, rượu ấm, tình nồng. Sự nối kết giữa hai sắc thái đối lập ở khổ thơ đầu dường như báo trước sự hiện diện của cái lạnh, chiếm lĩnh hết không gian và cả thời gian. Cái lạnh như mùa thu lãng đãng rơi xuống “chỗ tôi nằm” mà nghe hơi ấm còn quanh chăn gối, một trạng thái bềnh bồng, mơ hồ tựa bóng em đang lăn lóc giữa chiêm bao. Câu thơ dạt dào nỗi khắc khoải, như một vết cắt sâu không lành, để thi nhân còn mãi hoài trăn trở, lao đao!

Trở mình hồn vướng ngang sợi tóc
Em đi, bỏ lại cả trăm năm.
(Hư Vô)

Mà “em đi bỏ lại cả trăm năm”, thì quả thật cái mong manh của thời giam đã làm da diết cả khổ thơ, còn nghe long đong một phận người. Nhân vật trữ tình đang giam mình trong không gian giá buốt ấy với nỗi sầu chất ngất. Tôi ôm cái bóng và sự “trở mình” là một sự vùng thoát khỏi ám ảnh của nỗi cô đơn, nhưng quá khứ không buông, hay chính giai nhân đã cố tình bỏ lại chút hương thừa để nhân vật tôi “vướng hồn ngang sợi tóc”. Một loạt nét vẽ gợi hình tạo nên cảm xúc của sự bất an, muốn chối bỏ thực tại nhưng hình như chỉ là sự cố gắng không kết quả. Sợi tóc đã níu thi nhân lại với khối tình, với bóng hình quá khứ để khúc nguyệt cầm vẫn vang vọng vào đêm với mảnh trăng sầu lê thê, bất tận trong bóng tối của hồn người, dáng nguyệt!

Trần Sương Lam
August, 2018

(Xin xem tiếp phần 2)

Ảnh đại diện

Bến bờ (Hư Vô): Bến Bờ Hư Vô. Tuỳ bút Trần Sương Lam

Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ
(Đi Giữa Đường Thơm – Huy Cận)

Có lẽ như nhà thơ Huy Cận đã viết: “Ca dao luôn sống mãi trong bao tâm hồn Việt. Nó chính là dòng sữa ngọt ngào nuôi lớn đời ta“. Đối với người xa quê, ca dao dường như đã trở thành quê hương, thành xương thịt, là dòng tâm tưởng tràn trề, lai láng. Nó gợi nhớ tình quê, gợi những kỷ niệm một thời xa vắng. Chọn thể thơ lục bát của ca dao, Hư Vô đã làm ta sống lại những cảm xúc đã dồn nén bao lâu bỗng tuôn trào, lai láng. Đọc Bến Bờ của thi sĩ ta không chỉ cảm nhận đang về lại quê hương với dòng sông, con đò, bến đợi và bên tai vẫn cứ văng vẳng những làm điệu dân ca, ca dao về những tình yêu không trọn vẹn mà chính là ta đang sống trong một thế giới của âm nhạc, của cảm xúc, suy tưởng.

Con đò, dòng sông là mô típ thường thấy trong ca dao. Ca dao thường mượn hình ảnh con đò, bến nước, cây đa để thể hiện tình yêu thuỷ chung hay ly biệt, nhớ thương:

– Con đò với gốc cây đa
Cây đa muôn thuở chẳng xa con đò.

– Cây đa bậc cũ lỡ rồi
Đò đưa bến khác bạn ngồi chờ ai.

– Gọi đò chẳng thấy đò sang
Phải chăng bến cũ phụ phàng khách xưa.

“Thuyền đi để bến đợi chờ,
Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau.
Chẳng nên tình trước nghĩa sau,
Bến này dãi bóng trăng thâu đợi thuyền”

Chọn một hình ảnh thường xuất hiện trong đời sống, trong ca dao, nhà thơ dễ dàng truyền đến người đọc sự đồng cảm ngay từ phút giây đầu.

Gọi đò, đò đã sang sông
Gọi em, em cũng ngược dòng nhân gian
Gọi nhau một khúc tình tan
Em, người dưng đã, hoang đàng, thơ tôi!
(Hư Vô)

Đoạn thơ xuất hiện hình ảnh dòng sông, bến đợi, con đò và khách sang sông. Nhưng tất cả đều thể hiện sự trễ muộn. Đò đã sang sông, em ngược dòng nhân gian. Câu chữ không theo quy luật, hình ảnh cũng ngược chiều. Tất cả đều oái oăm, ngang trái. Tình tan, mộng dở dang. Lời gọi đò, gọi em, gọi nhau chỉ còn là những âm thanh buồn bã, tắt lịm. Dòng sông vẫn trôi, đò vẫn cứ sang sông không đợi khách bộ hành. Em không chờ tôi về đã vội vã bỏ đi, lạc hướng mịt mờ bóng chim tăm cá. Tình tan, em - muôn đời vẫn làm
người dưng, hoang đàng theo mỗi bước thơ tôi.

“Gọi” lập lại ba lần, “đò” lập lại hai lần, em- người dưng đã vừa lập lại vừa nhấn, câu cuối những dấu phẩy cắt câu bát thành bốn theo nhịp 1/3/2/2 diễn tả một sự rối loạn của cảm xúc. Thảng thốt, đau đớn, rã rời để rồi buông trôi, buông xuôi. Một nỗi đau định hình, sự thất vọng não nề hiện lên từng câu chữ. Có một chút gì cay trong mắt, có một chút gì nhói trong tim. Có lẽ là nỗi đau từ khúc tình tan của khách sang sông. Cấu trúc câu thơ với nhiều thanh bằng nhưng dường như không tạo được cảm giác nhẹ nhõm mà nhân rộng, toả rộng nỗi đau bởi vần “an”. Ngôn từ, cảm xúc của thi sĩ gợi tôi nhớ đến Lời thề cỏ may của Phạm Công Trứ:

Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lê.
Trăng vàng đêm ấy bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may…

Phạm Công Trứ gỡ bỏ lời thề cỏ may, Hư Vô khác xưa, hoang đàng cuộc đời, hoang đàng thơ. Chữ tình hư ảo sao làm tan nát bao cuộc đời, bao con người và có đôi khi sự tổn thương đã khép lại hoàn toàn trái tim yêu. Có lẽ điều này đúng với những người vốn có trái tim đa sầu, đa cảm như chàng trai đa tình trong thi phẩm. “Hoang đàng” có lẽ là câu chữ của thi sĩ thể hiện một sự thay đổi của nhân vật trữ tình, con người bình thường xưa đã không còn nữa, sự thay đổi quả thật đau lòng. Có lẽ chàng trai không thể chấp nhận được tình tan. Xưa nay tôi vẫn cho rằng tình là vô thưởng bởi nó đến rồi đi không hề báo trước, chính vi vậy khi tình yêu tan vỡ có những người không thể vượt qua có lẽ với một người bản lĩnh cách hành xử trên có phần nào yếu đuối, tiêu cực nhưng chưa hẳn như vậy bởi điều mình đặt hết tâm huyết vào nếu mất đi không thể xem là chuyện bình thường, bởi vậy mà “khúc tình tan” của thi sĩ bắt đầu lên tiếng:

Lời tình còn động trên môi
Trái tim tôi đã tơi bời xanh xao
Sông sâu có khúc bạc đầu
Đò em lỡ chuyến biết đâu mà chờ!
(Hư Vô)

Tình yêu trong Hư Vô thường là nỗi đau, thường là chia ly. Thi sĩ không nói rõ vì sao mà ly tan nhưng đôi khi chính người trong cuộc cũng không hiểu vì sao? Chỉ biết khi tình lỡ nỗi đau dường như làm ta tuyệt vọng. Nhưng có một điều tôi nhận ra nỗi đau tình trong thơ Hư Vô không quằn quại của những rên xiết, thét gào mà thật da diết đến đớn đau của những vết cắt sâu để rồi thành những đoá hoa sầu, những giọt lệ thầm trong đêm sâu khi chỉ một mình trong thăm thẳm của bóng đêm để rồi thảng thốt chợt nhận ra mình đã không còn như ngày xưa:

Gọi nhau một khúc tình tan
… Trái tim tôi đã tơi bời, xanh xao.

“Tơi bời” câu chữ đơn sơ, giản dị gần như là một khẩu ngữ tạo một định hình cho nỗi đau rất thực. Tơi bời là kết quả của một không gian vừa trải qua một cơn lũ tràn, một cơn bão lớn. Tất cả tan hoang, vỡ nát, rời rã, tang thương. Cơn bão tình làm giông tố phá nát hồn anh, đời anh. Cơn bão đi qua, sự sống rồi sẽ hồi sinh nhưng cơn bão tình thì mãi mãi thổi, linh hồn thành hoang mạc, nỗi sầu tạo thành quách trong tim. Cơn bão tình- cõi vô vọng đang hoà vào nhau tạo thành khúc tình tan. Có lẽ nỗi đau của khúc tình tan sẽ mãi theo chàng thi sĩ suốt những tháng ngày còn lại. Khi tôi đọc đến câu thơ này tôi liên tưởng đến bài thơ Bão của Tế Hanh:

Cơn bão tạnh lâu rồi
Hàng cây xanh thắm lại
Nhưng em đã xa xôi
Và cơn bão lòng ta thổi mãi.
(Tế Hanh- Bão)

Để rồi tôi cảm nhận ra cơn bão lòng tôi vẫn còn thổi mãi một niềm đau quá khứ có lẽ vì vậy mà tôi hiểu “trái tim xanh xao” của chàng trai, lại một câu chữ biến hoá trong tay của thi sĩ, lấy nét vẽ ngoại hình “xanh xao” để miêu tả thế giới nội tâm của riêng mình, một sự nhiễu loạn về màu sắc đỏ thành xanh, sự sống đã lìa bỏ, đã cạn nguồn khi em rời xa tôi. Nhẹ mà thấm, mà đau, câu chữ của Hư Vô vốn là vậy. Tim thay màu, không gian cũng thay màu:

Sông sâu có khúc bạc đầu
(Hư Vô)

Sông bạc đầu hay màu sông cũng đổi thay dường như là lời tự vấn của thi sĩ. Em bạc lòng, sông cũng bạc lòng, thiên nhiên vốn ít khi thay đổi mà vẫn đổi thay huống chi là con người. Em thay lòng, em làm tan nát cuộc đời tôi lời nhẹ trách mà thương nhiều. Trái tim nhà thơ vốn vậy luôn bao dung, luôn đầy đạm. Lời trách cứ thành âm vang trôi xuôi theo dòng sông:

Đò em lỡ chuyến biết đâu mà chờ!
(Hư Vô)

Em đi rồi khó quay trở lại. Nhưng cho dù có trở lại nhưng tất cả đã lỡ làng, đã kết thúc, câu thơ vang lên một âm thanh buồn bã của sự đợi chờ vô vọng “biết đâu mà chờ!”. Thời gian không đợi, người không hẹn quay về chỉ còn lại dòng sông và tâm trạng nỗi sầu của người đợi đò. Câu thơ gợi nhớ những câu ca dao với những nỗi buồn sông nước:

-Nước sông lững đững lờ đờ
Thương người nói vậy biết chờ hay không.

-Sông sâu cá lội ngù ngờ
Biết em có đợi mà chờ uổng công

-Sông dài cá lội biệt tăm
Thấy anh người nghĩa mấy năm em cũng chờ.

-Sông sâu biết bắc mấy cầu
Khi thương thì anh thương vội
Khi sầu anh để lại cho em

Gì buồn hơn giữa những dòng sông đỏ nước phù sa, con thuyền không thấy quay về. Dòng sông buồn thấm vào ca dao, chảy tràn qua thơ Hư Vô để thi sĩ ngẩn ngơ, nuối tiếc, xót xa, hụt hẫng và rồi chỉ biết buông xuôi:

Khi xưa lỡ một chuyến đò
Đi lên đi xuống vòng vo nỗi buồn
Bây giờ cách mấy đại dương
Muốn thăm em, đâu biết đường mà đi!
(Hư Vô)

Ở khổ thơ thứ hai, “Khi xưa” không và chưa bao giờ mất đi trong lòng thi sĩ; nó luôn song hành cùng thực tại “Bây giờ” đó là ranh giới của tình yêu: Anh vẫn không đổi thay. Không gian xưa hẹp chỉ là một bến sông, mà anh luôn đợi dù biết đợi chờ cũng chỉ để ngậm ngùi “Đi lên đi xuống” tôi thích chữ “ vòng vo” mà thi sĩ dùng. Đẹp, lạ và mang hơi hướm của ca dao tạo sự chân thực trong từng câu chữ. Vòng vo là trạng thái đi không định hướng, câu chữ gợi tôi nhớ đến chàng trai trong bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa” với động tác trèo lên/ bước xuống dường như vô thức để diễn tả sự mất phương hướng khi lỡ duyên. Và thi sĩ của chúng ta lại chọn bến sông để “đi lên đi xuống vòng vo” để diễn tả một cảm xúc buồn khi tình yêu đã hết. Vòng vo của bước chân lên xuống vô định kia làm trái tim người đọc cũng như lây nhiễm nỗi đau tình. Hư Vô đang đánh thức điệu hồn ca dao dậy để nỗi ngậm ngùi như sâu, như rộng, như dài hơn dường như để bắt kịp không gian. Ngày xưa là một không gian hẹp “bến sông” bây giờ là một không gian rộng “cách mấy đại dương”. Xưa chỉ một không gian hẹp mà đã lạc nhau một đời, giờ là không gian rộng thì làm sao mà tìm! “Muốn thăm em, đâu biết đường mà đi!”. Câu thơ dường như phá cách trong kỹ thuật hài thanh, câu chữ dường như không xuôi chiều, dường như có sự chống đối lại nhau. Tôi nghĩ câu thơ có thể viết thành “Muốn thăm em, biết đường nào mà đi!” nhưng thi sĩ không viết vậy bởi vì anh muốn dùng “biết đâu” ở khổ thơ trên thành “đâu biết” ở khổ thơ này như một cách nhấn. Biết đâu là một phủ định, đâu biết cũng là một phủ định, một khẩu ngữ dù có đảo cách nào đi chăng nữa cũng để thể hiện một nỗi niềm sự bế tắc, mịt mờ phương hướng của những kiếm tìm. Tôi nghe như lời tình vô vọng đang vang lên để rồi đọng lại thành nỗi buồn sông nước. Bến chờ, bến đợi trong ca dao chỉ còn trong tâm tưởng, bến sông xưa đã ngăn cách mấy đại dương nên bến tình buồn hiu hắt. Tôi thương những dòng sông đợi đò trong chiều vắng ngắt chỉ có gió lạnh đi qua không nói năng gì, tôi thương lữ hành đợi người nơi bến vắng chiều mưa để bao nhiêu hơi buốt giá thấm vào hồn:

Chiều phơi cuối ngọn xuân thì
Phủi tay, biết có còn gì cho nhau
Chuyến đò chở khẳm bể dâu
Bỏ tôi ở lại vực sầu lạnh tanh…
(Hư Vô)

Chiều xuống, chiều đang rơi, chiều tàn… Đó là cách mà ta thường dùng khi nói về hoàng hôn, Hư Vô viết “chiều phơi cuối ngọn xuân thì” cách viết vừa lạ, vừa hình tượng. Tôi tưởng tượng buổi chiều như đang phơi trần trước ta, dấu vết cuối ngày đã buồn lại càng buồn hơn khi hình ảnh người con gái ngồi phơi cuối ngọn xuân thì. Cái đẹp dường như đã tàn, đã kết thúc tạo nỗi ngậm ngùi dài và rồi nhân vật trữ tình cũng rời bỏ nỗi muộn phiền của đời mình trong một nồi niềm day dứt:

Phủi tay, biết có còn gì cho nhau
(Hư Vô)

Yêu là để chờ trong muộn màng, nuối tiếc; yêu là để trĩu nặng niềm ray rứt không nguôi, yêu là những bâng khuâng, nhung nhớ… Tình yêu là hạnh phúc trong nỗi thương đau, lặng im để tưởng niệm một thời tình đã qua… Phải chăng trong thi sĩ, trong tôi và chúng ta những người từng có một thời yêu có phải đã từng cho rằng: Yêu là được nhớ nhung, giữ gìn một ai đó trong tim dù có trải qua bao dâu biển đổi dời tình ấy không mất đi mà vẫn luôn nguyên vẹn.Tình yêu không đợi có nhau trong cuộc đời mà nó sẽ là một hình bóng luôn vẹn nguyên trong tâm hồn ta, nó là động lực giúp ta đứng lên khi bị cuộc đời xô ngã. “Phủi tay” có nghĩa là buông bỏ, là không còn nghĩ đến để vui hay để buồn nhưng chỉ là cái động tác ngoại hình bởì trong tâm hồn ông chữ tình vẫn chất chứa không nguôi “biết có còn gì cho nhau” một cụm từ phủ định nhưng lại mang ý nghĩa khẳng định của sự dâng hiến đầy yêu thương. Câu thơ buồn trong từng câu chữ nhưng lại trĩu nặng những “dấu tích trần ai”. Và trong tận cùng của quá khứ hình ảnh con đò lại quay trở về:

Chuyến đò chở khẳm bể dâu
(Hư Vô)

Khổ thơ đầu là “đò”, khổ thơ tiếp là “đò em” và hai khổ còn lại thi sĩ viết “chuyến đò” như một trình tự tăng tiến đò chở khách qua sông, em là chiếc thuyền tách bến sang sông một mình và cuối cùng là chuyến đò cuộc đời. Trễ đò, khách tiếc nhớ, mong đợi. Đò em sang sông, anh hụt hẫng đau thương. Đò đời chở nặng giông tố, biển dâu chỉ mình anh nhận thì quả thật là chua xót.

Hai câu thơ cuối khoanh tròn kiếp người, kiếp tình thành nỗi buồn phơi trên ngọn xuân thì. Phủi, bỏ, ở lại.. một loạt từ diễn tả những trạng thái ngược nhau là những suy ngẫm về cuộc đời, về tình yêu. Đời là biển dâu, chàng trai đã nhận trong khoảng đời phiêu bạt, có những nỗi buồn, nỗi nhớ không thể tỏ bày và tình yêu cũng mất chỉ còn lại thi sĩ và vực sầu lạnh tanh. Lạnh tanh nghĩa là rất lạnh. Tình lạnh, đời lạnh chồng lên nhau, nỗi đau của tình lỡ, nỗi đau của bể dâu cuộc đời chỉ mình “tôi” mang không người chia sẻ. Tại sao không là “để tôi” mà lại là “bỏ tôi”. Chữ bỏ đã nói lên tất cả. Bỏ mặc, không đếm xỉa, không đoái hoài là sự từ bỏ, bỏ rơi nó là kết quả của tình yêu một thời tươi đẹp. “Bỏ tôi” đã làm tăng cao nỗi cô đơn, bẽ bàng của thi sĩ, nó dồn ép cảm xúc là một sự cam chịu đầy cay đắng, tôi thương sự cô đơn của thi sĩ trong cuộc đời, tôi cảm nhận được vực sầu lạnh tanh mà anh viết. Hai vần”anh” liền kề tạo một âm vang, âm vang từ đáy vực nên thăm thẳm mất hút trong không gian nên cuối cùng âm thanh cũng im bặt chỉ còn lại khoảng trắng lặng im càng tô đậm dáng vẻ cô đơn của nhân vật trữ tình. “Lạnh tanh” tôi rằng nó là cụm từ đắc địa thể hiện trọn vẹn cảm xúc của bài thơ. Lạnh của yêu thương, lạnh của nhân tình, cái lạnh đã trùm suốt bài thơ nhưng càng về cuối cái lạnh càng lạnh hơn nữa thành một chuỗi âm vang không lời thể hiện cái lạnh lẽo, trơ trọi của một nỗi đau tình khi chỉ còn mình “anh” đi trên con đường tình, đường đời bơ vơ.

Khúc tình tan của Hư Vô đã cho tôi một khoảng lặng của ngậm ngùi, của xót xa khi tình yêu tan vỡ. Nếu Xuân Diệu đã từng làm xúc động bao trái tim người yêu thơ với “Cung Nguyệt Lạnh” thì Hư Vô đã đem đến cho người đọc mê lộ cùng đường của “Khúc Tình Tan”. Trong khúc ca tan vỡ kia tôi thấy thấp thoáng bóng của ca dao hiện về với giọng hò thê thiết trên sông nước mênh mông với những khúc ca não lòng của tình yêu tan vỡ. Tôi tìm thấy trong khúc tình tan của Hư Vô nỗi chạnh lòng, nỗi thương thân trong kiếp tình buồn, trong cuộc đời dâu biển đa đoan và khi bài thơ khép lại thì cái giọt “lạnh tanh” kia chính là giọt sầu, giọt đời thi sĩ, tôi, bạn đang uống từng ngày và ngày vẫn cứ trôi trong tiếng vọng của ngàn xưa với khúc tình tan của chàng thi sĩ có tên gọi HƯ VÔ.


August, 2018
Trần Sương Lam
Ảnh đại diện

Như loài chim Thorn Birds (Hư Vô): Thi Sĩ Hư Vô - Như Loài Chim Thorn Birds

Trần Sương Lam

Như Loài Chim Thorn Birds

Tôi phiêu lãng mang hồn đi ở trọ
Chỗ nhân gian lạc lõng tiếng khóc cười
Để thấy em hoá thân thành người lạ
Rồi lân la chen chúc bước vào đời.

Dấu chân hoang còn in trên phiến đá
Từ trăm năm một di tích luân hồi
Như chiếc bóng cựa mình trong lòng mắt
Có xốn xang thì cũng mất nhau thôi!

Tôi lảo đảo tựa loài chim Thorn Birds
Gọi thất thanh lời yêu dấu sau cùng
Chùm gai nhọn xuyên qua đời thảng thốt
Đâu chắc gì em đã kịp khóc chung.

Thì cũng có một thời em lỡ vận
Ngồi tựa lưng cùng những bụi mận gai
Nghe máu chảy sụt sùi quanh vết nhọn
Ghim ngọt ngào một dấu tích trần ai…

Hư Vô

Hình ảnh chim, cánh chim không lạ trong văn chương Việt Nam xưa cũng như nay. Ta có thể bắt gặp trong văn chương trung đại cánh chim mang cả buổi chiều trong đôi cánh nhỏ, chao nghiêng; cánh chim bơ vơ, lạc loài cuối chân trời tìm về chốn bình yên; cánh chim với giọng hót nức nở của nỗi thương nhà, nhớ nước… Nối tiếp dòng văn thơ cổ, nhiều thi phẩm hiện đại vẫn thấp thoáng những cánh chim bay:

“Chim trời thả bóng vào mây
Ngẩn ngơ thả nhớ vào ngày xa em”

(Hoàng Đình Quang –Chiêm Bao)

Ngày mai nhạn sẽ hợp đôi
Ngày mai tôi sẽ ngỏ lời yêu em
(Ngày mai)

Nhưng tội nghiệp, trên trời đôi nhạn lạc,
Cứ yêu nhau đừng tưởng đến ngày mai..

(Lòng anh – Hàn Mặc Tử)

Những cánh chim trong thi đàn hiện đại Việt Nam thường là cánh chim chuyển tải những cảm xúc của con người trong tình yêu với khúc hoan ca lẫn bi ca về tình yêu. Hư Vô cũng hoà vào chương khúc tình yêu của Việt Nam, của nhân loại lời hát tình yêu “Như Loài Chim Thorn Birds”.

Trong truyền thuyết có một loài chim là Thorn Birds. “Loài chim ấy chỉ hót một lần trong đời nhưng là tiếng hót hay nhất thế gian. Có một lần nó rời tổ bay đi tìm cho bằng được một bụi mận gai. Giữa đám cành gai gốc, nó cất tiếng và hát bài ca của mình rồi lao ngực vào chiếc gai dài nhất, nhọn nhất. Nó không biết sức mạnh nào đã buộc nó lao vào mũi nhọn đến chết mà vẫn hót. Lúc mũi gai xuyên qua tim, nó không nghĩ rằng mình sắp chết, nó chỉ hót cho đến lúc mất tiếng đứt hơi”…và thi sĩ Hư Vô đã mượn loài chim Thorn Birds để gửi vào đó khúc tình buồn của mình.

Khúc tình buồn ấy bắt đầu bằng câu chuyện thuở mới quen nhau:

Tôi phiêu lãng mang hồn đi ở trọ
Chỗ nhân gian lạc lõng tiếng khóc cười
Để thấy em hoá thân thành người lạ
Rồi lân la chen chúc bước vào đời.

(Hư Vô)

Hai câu thơ đầu tôi cảm nhận lạnh, lạnh tanh. Trần gian lạc lõng, chơi vơi. Trần gian đơn điệu chỉ có tiếng khóc, tiếng cười. Trần gian không có gì để gắn bó nên chẳng thiết tha. Lạnh, nhạt, câu chữ hằn một nỗi chán chường đến mệt mỏi. Nhưng chàng thi sĩ không đi một mình, vô tình nhận ra “em” cũng bước vào cõi tạm với sự “lân la, chen chúc” hai từ này trong văn nói thường mang nghĩa “chê” (nghĩa âm tính), nhưng khi ngôn ngữ đã thành thơ sẽ trở nên sống động, tượng hình lạ lùng. Còn từ “hoá thân” lại là một từ đẹp. Tôi cho rằng “em” ở đây có một cái gì không như trước, không giống như xưa và khi hai người yêu thương nhau không cảm nhận sự gần gũi thì sao có thể gắn bó. “em hoá thân thành người lạ” dường như là lời báo trước của thi sĩ về cuộc tình tan. Kiếp trước hẹn hò gặp nhau kiếp sau. Nhưng kiếp sau lại có một cái gì chênh giữa hai con người ấy. Tôi cảm nhận hình như giữa hai con người ấy “lạc” mất nhau rồi. Nhớ lời thề nguyền, tìm dấu tình yêu, tìm chốn ước hẹn chờ người:

Dấu chân hoang còn in trên phiến đá
Từ trăm năm một di tích luân hồi

(Hư Vô)

Lãng tử tìm thấy dấu chân thuở trước như một di tích luân hồi. Nhẽ ra dấu vết ấy nên dùng chứng tích hay dấu tích nhưng nhà thơ lại chọn di tích luân hồi. Một nghệ thuật cường điệu để dấu tích trần ai bình thường thành di tích luân hồi đặc biệt. Đặc biệt vì khối tình ấy như khối ngọc lưu ly không tan, luân hồi theo kiếp người. Tình đẹp, thi sĩ nặng tình. Câu thơ ấm áp, toả rạng, cảm xúc thăng hoa. Nhưng cái gì đẹp lại không ở với ta lâu, tình như chiếc bóng vừa thấy đã tan biến. Sự chóng vánh tạo giọng điệu xót xa:

Như chiếc bóng cựa mình trong lòng mắt
Có xốn xang thì cũng mất nhau thôi!

(Hư Vô)

“Cựa mình” câu chữ chạm đến sự mong manh. Tình sao mong manh thoáng qua trong tia nhìn rồi hun hút trôi đi. Hụt hẫng, bàng hoàng, tiếc nuối. Trái tim nặng tình đau xót không nguôi. Ý thơ làm tôi nhớ đến một câu ca dao:

“Xốn xang như muối xát gừng,
Phải chi hồi trước ai đừng biết ai!”
(Ca dao)

Người tình trong ca dao hối tiếc vì biết duyên không thành thì thà đừng quen nhau. Lãng tử không hối tiếc mà đau xót vì không giữ được tình đã đợi chờ nhau bao kiếp.

Tình yêu đã hết thì không thể quay lại được nữa, cho dù tâm còn động, cho dù không thể quên. Điều này đến bây giờ tôi mới cảm nhận được: Người ta rời bỏ nhau không phải vì hết yêu nhau mà vì không còn có thể ở cùng nhau được nữa. Có lẽ vì vậy mà câu thơ “Có xốn xang thì cũng mất nhau thôi!” đã trở thành nỗi ngậm ngùi dài.

Vì sao mà chia tay có lẽ chỉ mình lãng tử hiểu và đã là niềm riêng thì sao có thể sẻ chia chính vì cứ mang nên nỗi sầu cứ nhân lên nhiều dần cho đến một lúc phải vỡ tung, phải kết thúc, phải dừng lại. Khổ thơ tiếp tôi cho rằng nó là khổ thơ nặng chất kịch tính đẩy cảm xúc của thi sĩ lên cao trào:

Tôi lảo đảo tựa loài chim Thorn Birds
Gọi thất thanh lời yêu dấu sau cùng
Chùm gai nhọn xuyên qua đời thảng thốt
Đâu chắc gì em đã kịp khóc chung.

(Hư Vô)

“Tôi” xốn xang, lảo đảo, thất thanh, thảng thốt… một loạt từ láy diễn tả nhiều cung bậc của tâm trạng tràn ngập những âu lo, thảng thốt, hãi hùng. Âm thanh, cảm xúc, hành động được khuấy động lên như một cơn giông bão mịt mù. Động lực cuối cùng để tồn tại cũng không còn. Tình bao kiếp cũng tan vỡ, sức chịu đựng hoàn toàn sụp đổ thương quá hình hài của chàng trai “phiêu lãng mang hồn đi ở trọ” âm thanh thảng thốt cuối cùng cất lên là khúc hát về tình yêu bất tử trỗi dậy trước khi nhận chùm gai nhọn xuyên thấu qua trái tim mình. Dòng máu chim Thorn Birds đang tuôn chảy, dòng máu của chàng trai đang tuôn chảy cuốn theo dòng nước mắt của tôi – người đã chứng kiến mối tình giẫy chết. Hoá thân của tình yêu sao quá đắt, gục xuống trên chùm gai nhọn vẫn là kiếp cô đơn và trong tận cùng sâu thẳm của linh hồn yêu vẫn khắc khoải một điều da diết: mong giọt nước mắt em rơi trước chân tình của tôi. “Đâu chắc gì” vẫn là giọng buồn thương da diết ẩn chứa một nỗi niềm một hoài vọng, mong ngóng. Không có dịp để làm người tình chung nhưng không thể thì mong được một lần “khóc chung”. Ước muốn đơn giản nhưng vẫn không thành hiện thực. Lời thơ chất chứa những đắng cay.

Sự ruồng bỏ đã thành hình nhưng trái tim tình yêu vẫn không ngừng khắc khoải một ước mơ: chàng trai phiêu lãng gửi lại cho đời khúc tình yêu bất tử, một tặng vật tình yêu quý giá cho những tình nhân đang tha thiết yêu nhau:

Thì cũng có một thời em lỡ vận
Ngồi tựa lưng cùng những bụi mận gai
Nghe máu chảy sụt sùi quanh vết nhọn
Ghim ngọt ngào một dấu tích trần ai…
(Hư Vô)

Một hồi ức về tình yêu đã qua. Vẫn là cái nhìn bao dung, nhân hậu của thứ tha. Em cũng đã từng yêu tôi, từng hy sinh cho một tình yêu vĩnh cửu cũng từng bị gai cào nát thịt da. Dấu tích tình yêu, sự tận hiến của em cho tình vẫn còn ghi dấu, cho dù hôm nay em đã quên, đã không còn yêu thương tôi vẫn không trách hờn, tôi vẫn muốn để lại cho em một khúc hát của tình yêu bất tử, món quà tôi tặng ghi dấu những hoan lạc của tình yêu cùng những ngọt ngào, cay đắng. Đó là “dấu tích trần ai” Nếu chỉ là dấu chân hoang qua cõi tình nhiều kiếp chỉ là một “di tích luân hồi” nhưng đã là sự hiến dâng thì lại là một kết thúc luân hồi để tình yêu chuyển sang một cung bậc mới “dấu tích trần ai”. Tình yêu định hình trở thành những vết cắt đớn đau “Nghe máu chảy sụt sùi quanh vết nhọn” nhưng rồi nó “ghim” thành một một dấu tích ngọt ngào. Điều rất sâu trong cảm nhận của thi sĩ là nỗi đau đớn của kiếp tình sẽ thăng hoa trở thành một bông hoa, bài nhạc khi nó được trui rèn trong sóng gió, trong sự tha thứ, bao dung, trong sự tận hiến của con người như Meggie Cleary – người phụ nữ trong tiểu thuyết “Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai” được Colleen Mc Culough xây dựng lên chính là hiện thân của loài chim Thorn Birds. Meggie biết tình yêu không phải chỉ là vị ngọt, nó có cả vị mặn chát, chua, cay của nước mắt, của ghen tuông, của hiểu lầm, của chia ly… mà nhiều khi, cái vị ngọt ngào của hạnh phúc, trong cả cuộc yêu mình chỉ nếm được một lần. Nhưng cái gì tốt đẹp nhất chỉ có thể có được khi người ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại. Bởi vậy nên cô cứ lao ngực vào bụi mận gai, vắt kiệt sức mình vì tình yêu, dù biết nó có thể vô cùng đau đớn.

Bụi mận gai không lạ với những tình yêu mãnh liệt. Ở đó, những tình nhân đã từng nếm nhiều hương vị của tình yêu ngọt ngào, chua cay lẫn đớn đau. Mỗi lần đớn đau là thương tích toàn thân, nỗi đau như máu tim chảy tràn. Lời thơ làm tôi nhớ đến lời của một bài nhạc “Speak Softly Love” của Nino Rota do Larry Kusik viết ca từ và Trường Kỳ dịch lời Việt: “Có biết đau thương mới như là tình / Say đắm trong đời thì mới là yêu. / Tình như đớn đau tình xé lòng nhau / Muôn đời không lành.” (Thú Yêu Thương)

Chết cho tình yêu, cái chết ngọt ngào tuy đớn đau nhưng khẳng định cái quý giá của tình yêu. Nếu cuộc sống trần gian không còn chỗ cho tình yêu tồn tại thì nơi ấy đã tận thế.

Đọc bài thơ tôi tự hỏi: Tình yêu không phải lúc nào cũng là khúc ca hoan lạc mà có khi còn là khúc bi ai. Phạm Thái vì tình mà vỡ tan giấc mộng anh hùng, Honoré de Balzac chờ đợi hơn hai mươi năm để đến với tình yêu muộn của mình và còn bao nhiêu cặp tình nhân đã như loài chim Thorn Birds kia chấp nhận cái chết để dâng tặng cuộc đời một khúc ca tuyệt vời, như Meggie Cleary hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho “người tình trăm năm” mà không hề hối tiếc. Vị đắng của tình yêu càng nhiều thì vị ngọt ngào càng có ý nghĩa hay nói một cách khác tình chỉ đẹp, mãi mãi tồn tại nếu ta biết dâng hiến, chấp nhận mọi nỗi đau chỉ cho riêng mình.

Trần Sương Lam

Tài liệu tham khảo:

Trang Tho Hư Vô

https://evan.vn-: Hạ Miên


Ảnh đại diện

Phơi áo tình nhân ngày giáp Tết (Hư Vô): Vào Xuân, đọc bài thơ: “Phơi Áo Tình Nhân Ngày Giáp Tết” của Thi Sĩ Hư Vô. Tuỳ bút Trần Sương Lam

Đẹp nhất trong năm là những ngày sắp Tết. Trời se se lạnh cho dù khí hậu Sai gòn sớm nắng chiểu mưa. Còn gì thú vị hơn khi được lang thang qua những con đường vắng, đón Tết sớm của riêng mình cũng là một hạnh phúc không dễ gì có được.

Sài gòn ngày xưa đi đâu đâu ta cũng bắt gặp những tà áo dài thướt tha trong gió. Nữ sinh, phụ nữ làm công sở, người đi chơi… ai cũng thích mặc áo dài. Tôi một người con gái của Sài gòn thuở ấy cũng chỉ thích một trang phục duy nhất – áo dài.

Đêm giao thừa nào cũng vậy, cả nhà tôi đều đi lễ chùa, hái lộc đầu năm. Những tà áo dài tha thướt trong đêm sương lành lạnh, trong mùi nhang trầm thơm ngát, trong tiếng chuông chùa, trong tiếng pháo đì đùng tiễn đưa năm cũ là những kỷ niệm không dễ gì quên, nó đi vào cuộc sống của tôi thầm lặng mà đầy nhung nhớ mênh mông. Tôi yêu mùa xuân, tôi yêu Sài gòn những ngày giáp Tết:

Giao thừa em đi hái lộc
Chuông chùa theo gió trầm đưa
Lòng tôi vang hồi tín mộ
Trôi dài suốt chuỗi ngày xưa
(Sưu tầm)

Sài gòn sau 75 bao thay đổi. Đổi từ diện mạo đến cách sống, giá trị sống và cả con người. Bây giờ còn mấy ai ngồi lặng lẽ một mình trong đêm giao thừa mà đọc thơ tình. Cuôc sống thực dụng đã làm thay đổi và đồng thời cũng làm mất đi nhiều thứ lắm. Cái thành phố từng được xem là Hòn Ngọc Viễn Đông bây giờ cũng xô bồ, chen chúc, hỗn loạn; đi tìm một chốn thanh vắng thật là không dễ dàng gì. Thôi thì trong căn phòng nhỏ của riêng mình, cái thế giới thật nhỏ nhưng không luỵ phiền mỗi ngày tôi đi về với nó để cảm nhận một thoáng bình yên trong dòng đời cuộn chảy. Tôi đón mùa xuân trong thời khắc lặng lẽ, riêng mình với bài thơ mùa xuân của Hư Vô:

Phơi Áo Tình Nhân Ngày Giáp Tết.

Áo tình nhân em phơi vào Tết
Trên chồi mai nhọn đoá xuân thì
Em phơi cái bóng tôi trong mắt
Vạt áo buồn ai bay ướt mi.

Ngày tôi đi em còn kẹp tóc
Đứng nép bên song để đợi chờ
Tôi về không kịp như hò hẹn
Xác pháo đường hoa đỏ dốc mơ.

Em còn đứng bên bờ tơ lụa
Áo chưa khô giọt lệ lăn trầm
Để em mặc khoe cùng nhan sắc
Chút kiêu kỳ tặng phẩm tình nhân.

Thì như tôi vẫn còn đâu đó
Ở loanh quanh một chỗ thật gần
Tìm trong hương cũ em sẽ thấy
Mùa xuân đang chạm tới da trần…

Hư Vô

Trong tình yêu, quà tặng cho nhau là điều bình thường. Tặng quà – món quà người yêu mình thích đó là điều những người yêu nhau thường làm. Tặng để lưu dấu tình yêu, tặng như một lời đính ước, đợi chờ nhau…

Hư Vô tặng cho tình nhân mình chiếc áo. Món quà bình thường, giá trị vật chất không cao nhưng nó bao hàm một ý nghĩa sâu sắc. Tặng áo để người yêu luôn nhớ về mình, nhớ những kỷ niệm tình yêu. Món quà của thi sĩ phù hợp với tình yêu ngây thơ, đượm sắc màu lãng mạn của mối tình đầu thời đi học. Thuở mà tình yêu chưa bao giờ đạt lên cân mà tính toán lỗ lời. Hẳn món quà đó làm cho người con gái được yêu muôn vàn hạnh phúc. Sư lựa chọn ngẫu nhiên vô tình trùng lặp hay là một ẩn ý của thi sĩ đưa người đọc trở về nguồn cội của chiếc nôi văn hoá dân gian, một tặng vật gợi tình, gợi nhớ đẫm chất thơ. Ca dao Việt Nam có nhiều bài nói về việc tặng áo, tặng khăn cho tình nhân. Cái áo trong ca dao đã thành vật kỷ niệm, biểu tượng của tình yêu lứa đôi nồng nàn, bền chặt, là chỗ dựa tinh thần, phương thuốc mầu nhiệm của những lứa đôi.

Chiếc áo của thi sĩ không chỉ là tặng vật đơn thuần mà gắn vào đó là lời hứa. Chiếc áo vì thế mà thiêng liêng mà mang bao giá trị. Em giữ gìn chiếc áo, đợi anh về. Thế nhưng lời hứa chưa thể thực hiện, người con gái không đủ niềm tin để đợi chờ. Chiếc áo được giấu kỹ, khoá kín như một phần đời không bao giờ được bộc lộ ra. Không nỡ bỏ, vẫn quý yêu nên Tết đến xuân về, người con gái mang chiếc áo ra phơi. Phơi có nghĩa là đã rất lâu không dùng đến, phơi là để cố giữ một kỷ niệm của một thoáng vàng son, phơi là vẫn bận lòng, vẫn một chút tiếc nhớ mối tình thơ ngây đã qua đi. Chiếc áo vì thế mà dường như có linh hồn, có nỗi buồn – nỗi buồn của những lãng quên.

Áo tình nhân em phơi vào Tết
Trên chồi mai nhọn đoá xuân thì

Áo phơi lên đón mùa xuân về. Hai sự việc như dẫn dắt nhau đưa người đọc đến thế giới của không gian tự nhiên và không gian của hồn thi sĩ.

Mùa xuân kéo theo chồi non, lộc biếc, càng đẹp hơn khi “em” đang độ xuân thì. Hư Vô thật tinh tế khi viết về mùa xuân non tơ phải là “chồi mai nhọn”, chồi nhọn là chồi chưa lớn, chưa căng tràn sức sống, còn e ấp, thơ ngây. Mùa xuân ở đây thuộc về vẻ đẹp chưa mãn khai, vẻ đẹp mới tượng hình, non tơ, nõn nà, e ấp. Vẻ đẹp tinh khiết, thơ ngây của đoá xuân ngời. Cái đẹp của liên tưởng, của dẫn dắt, của khám phá, của sự toàn bích. Hương mùa xuân bát ngát đất trời, hương xuân nữ bao la khắp chốn. Vẻ đẹp khiến ta phải cảm xúc đến trào tuôn và có khi còn phải thốt thành lời ca ngợi. Khung cảnh tươi, không gian ngát hương, mùa của đôi lứa, của tình yêu nhưng không là đôi lứa đang yêu và tình tự với mùa xuân mà lại chỉ có một – cái một lẻ loi: “Cái bóng tôi”. Nếu là người yêu thơ anh, có lẽ ta không ngạc nhiên khi thấy không gian mùa xuân xuất hiện cái bóng. Tôi nhớ đến truyện dài của Tuý Hồng “Tôi nhìn tôi trên vách” và có cảm nhận chúng ta như chiếc bóng cả đời tự rượt đuổi mình nhưng vẫn không làm sao vượt qua nỗi cô đơn. Nghĩ nhiều nên tâm động, cuộc sống chỉ có tôi tồn tại. Tâm là bóng, tình là bóng, đời cũng là một chiếc bóng. Câu thơ dường như đã cực tả được nỗi cô đơn của kẻ lãng du qua đường tình mà không có điểm dừng chỉ lang thang, đơn độc. Mối tình tơ, mối tình thơ thoáng như một giấc mơ nhưng nó để lại trong tâm hồn thi nhân bao dấu tích. Để từ đây, trong thơ Hư Vô ta thường bắt gặp chiếc bóng của chàng nghệ sĩ đa tình:

Bước chưa qua chiếc bóng
Quẩy cái gánh cồng kềnh
Mà hồn nghe luýnh quýnh
Biết còn kịp tái sinh.
(Con Đường- Hư Vô)

Một lần em biết khóc
Giọt nước mắt dậy thì
Cho trắng da dài tóc
Che bóng người tình si.
(Từ Khúc Mùa Xuân -Hư Vô)

Em mang mùa hạ qua cầu
Ta như khách lạ tìm đâu bóng mình.
(Áo Hạ Vàng -Hư Vô)

Bóng mình không tìm thấy ai tìm ra bóng ta trong cuộc đời dài rộng. Nỗi u ẩn muộn phiền đang thấm vào không gian, thấm vào lòng người những gam màu ảm đạm.

Em phơi cái bóng tôi trong mắt
Vạt áo buồn ai bay ướt mi.

Thì ra chàng đã cảm nhận rất rõ: anh không còn gì trong em. Sự hiện hữu của anh chỉ còn đọng trong đôi mắt đã mơ hồ, đã không còn tồn tại. Đôi mắt của tình xưa kéo không gian về lại quá khứ êm đềm:

Ngày tôi đi em còn kẹp tóc
Đứng nép bên song để đợi chờ
Tôi về không kịp như hò hẹn
Xác pháo đường hoa đỏ dốc mơ.

Em vẫn còn kẹp tóc, vẫn ôm cặp đến trường, vẫn đón lời hò hẹn, nép bên song đợi chờ. Mối tình có lẽ đẹp như bài thơ vì nó còn mới mẻ, còn ngây thơ, trong sáng. Họ yêu không lâu và phải từ biệt nhau với lời hẹn ước đợi chờ. Và tình yêu đã bước vào ngã rẽ, con đường anh đi lắm chông gai. Thời gian không biết là bao lâu em đã quên lời hẹn- người con gái đi lấy chồng. Có hạnh phúc không khi em là người lỗi hẹn? Có đớn đau không khi tôi không còn có em? Chỉ biết câu thơ cuối đoạn kết bằng máu đỏ của trái tim đau: “Xác pháo đường hoa đỏ dốc mơ”. Dốc mơ đâu còn màu hoa tím mà chỉ toàn sắc đỏ của ly tan. Ý thơ làm tôi nhớ đến câu thơ của TTKH:

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng

Hoa đỏ nhưng bài thơ không sáng, không rực rỡ. Dốc mơ không đẹp như thơ, màu đỏ của tim tan vỡ làm nhức nhối trái tim ta. Dốc mơ của đồi yêu bây giờ chỉ là máu nhỏ của chàng thi sĩ cô đơn. Nỗi đau vì thế đã tượng hình thành nỗi tiếc nhớ khó nguôi ngoai:

Em còn đứng bên bờ tơ lụa
Áo chưa khô giọt lệ lăn trầm
Để em mặc khoe cùng nhan sắc
Chút kiêu kỳ tặng phẩm tình nhân.

Đọc khổ thơ này tôi lại nhớ một đoạn thơ tôi biết lâu lắm từ thuở còn đi học:

Ta đứng bên đường chờ em buổi xuân
Có nụ tình xanh ru má em hồng
Có hạnh phúc nào ru đời rất ngắn
Như cuộc tình đầu mang nhiều bâng khuâng

Tình đầu luôn thánh thiện đến tuyệt vời mãi mãi ủ hương hoa trong hồn ta làm say đắm đến diệu kỳ. Người Tình Hư Vô trở thành nàng tiên trong một không gian bát ngát của tơ lụa, gấm hoa, của nhan sắc kiêu kỳ. Chiếc áo lụa là quà tặng của tình nhân càng làm rực rỡ hơn vẻ đẹp huyền hoặc, mê đắm của người con gái. Đoạn thơ sống động, rực rỡ và cũng lắm những u tình. Áo có đẹp nhưng chỉ mặc một mình không anh cùng xuống phố chỉ càng tô đậm cảm giác lẻ loi, kỷ niệm dù đẹp không đủ gói cả cuộc đời. Có tình yêu mà vẫn lẻ loi, những giọt lệ khóc thầm chảy tràn trên gối mỗi đêm, chảy thấm vạt buồn của chiếc áo hẹn hò, kỷ niệm. Với Hư Vô, xa không gian nhưng tình lại thật gần. Câu thơ bật lên nỗi niềm thấu cảm. Trái tim người tình sâu sắc, thiết tha. Thương em với nỗi buồn đơn lẻ, những lúc khóc ai là người lau nước mắt. Xa tặng áo để em luôn nhớ, để em khoe với bạn bè. Chu đáo, tận tình, đầy yêu thương, trìu mến trong cách tặng, quà tặng. Em đã qua cầu, pháo đỏ rượu hồng, xuân xanh phấp phới. Màu đỏ với em hân hoan, chất ngất. Màu đỏ trong tôi là máu nhỏ từ tim, những giọt máu tình yêu đang tuôn chảy. Đau đớn mà không oán trách mà vẫn là những chăm chút yêu thương:

Thì như tôi vẫn còn đâu đó
Ở loanh quanh một chỗ thật gần

Bềnh bồng, lãng đãng như là mưa, như là sương, là gió hay là lá nhưng dù gì đi chăng nữa vẫn là điều không tồn tại. Mạch buồn đã ngấm, chữ nghĩa đã nhoà, bóng tôi đang mờ dần, nước mắt đang nhỏ xuống… Em khóc thương tình tôi, hay em khóc cho mình không đủ kiên nhẫn để đợi chờ hay vì lẽ gì nuối tiếc một tình yêu đẹp đã phai tàn. Tôi như nghe tiếng thì thầm đầy yêu thương của thi sĩ::”Thì như tôi vẫn còn đâu đó/ Ở loanh quanh một chỗ thật gần” Nước mắt rơi xuống rồi nhưng không không phải của thi sĩ, của Người Tình Hư Vô mà của tôi, người suốt đời đi tìm một bóng mát cho đời mình chưa bao giờ gặp. Tôi khóc cho sự đầy đạm trong tình yêu của chàng thi sĩ – Tình yêu không có sự kết thúc nếu là một tình yêu đích thực.

Tình yêu phải là sự quan tâm, ân cần, chăm sóc, chở che. Chỉ đứng loanh quanh, một chỗ thật gần, mãi mãi bên đời rất gần em chỉ đâu đó mà thôi (nhưng em có biết hay em đâu biết?). Tôi nhìn thấy sự đôn hậu, dịu dàng, ân cần, chu đáo mà vẫn đủ đầy đam mê ở thi nhân.

Thế giới tình yêu của Hư Vô thật đẹp, cái đẹp của thuỷ chung, của những ngọt ngào, da diết như lời trò chuyện thầm lặng cuối gửi cho tình nhân:

Tìm trong hương cũ em sẽ thấy
Mùa xuân đang chạm tới da trần…

Nếu khi nào buồn, em muốn quay lại tìm chút mùi hương cũ của tình ta, em sẽ thấy mùa xuân trong chiếc áo ngày nào anh tặng, mùa xuân vẫn còn nguyên vẹn chưa phai, chưa bao giờ mất đi. Chữ “chạm” tôi cho đó là chữ “đẹp nhất” của bài thơ. Chạm đã kết tinh cả không gian, thời gian, sự sống, thanh xuân, tình yêu vào đó. Khẽ chạm vào chiếc áo quá khứ sẽ làm sống lại trong em tình anh ngày ấy- bây giờ – mai sau cũng chỉ vẻn vẹn một khối tình chưa bao giờ thay đổi.

Tôi yêu ngôn ngữ thơ Hư Vô vì tôi cảm nhận điều anh viết giống như bút hiệu của anh: Thực ra mọi điều trong cuộc đời này kể cả chữ tình đắm đuối làm đau đớn bao người nó chỉ là hư vô nhưng bước vào cõi hư vô ta lại thấy một điều rất thực mùa xuân đang chạm vào ta, thấu đến da trần. Nhục cảm- Đê mê- Tràn trề- Bát ngát đến mênh mông- Đó là cách nhà thơ tìm đến mùa xuân. Những năm 40, Xuân Diệu đã làm cho bao người Việt Nam phải kinh ngạc vì cách miêu tả mùa xuân rất gợi của ông “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”; “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” thì ở thế kỉ XXI cũng có một nhà thơ tả mùa xuân cũng tuyệt vời không kém “Mùa xuân đang chạm tới da trần…” Nếu Xuân Diệu vồ vập, ngấu nghiến, ôm chầm mùa xuân thì Hư Vô. chiếm lĩnh mùa xuân một cách nhẹ nhàng, tinh tế. Ta cảm nhận mùa xuân trong thơ Hư Vô tinh khôi, thanh khiết, lãng đãng nhưng lại rất đời, rất gần không hề xa chính vì vậy thơ anh đã đi vào bao tâm hồn đồng điệu họ đã giao cảm, đã ngậm ngùi, đã trân trong những thi phẩm tuyệt vời mà anh đã đưa đến cho mọi người (kể cả tôi)

Nếu Xuân Diệu trong Vội Vàng đã đưa đến cho người đọc một thiên đường trần gian, một mâm cỗ tuyệt diệu của những món ngon vật lạ để ngợi ca tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu thì Hư Vô lại đem đến cho chúng ta một ly rượu mùa xuân có men đời chua chát hoà với men tình đắm say của nuối tiếc da diết về cái đẹp của tình yêu- rất đẹp nhưng cũng chóng phai tàn vì cái đẹp vốn mong manh, yếu ớt.

Mùa xuân sẽ lại về với đất trời, với chúng ta một lần nữa. Trong trời đất vô cùng này hãy tận hưởng tất cả cuộc sống trần gian cho dù đó là niềm vui hay nỗi buồn tất cả đều đáng trân quý vì dù vui, dù buồn hạnh phúc nhất là được làm một con người. Và thi sĩ Hư Vô của chúng ta cũng cảm nhận trong cõi vô cùng của đất trời, anh vẫn tìm đến mùa xuân với cả tấm lòng yêu đắm đuối:

Một chút hương thầm rơi xuống đất
Là cả mùa xuân rất diệu kỳ…
(Vườn Xuân- Hư Vô)

Phơi Áo Tình Nhân Ngày Giáp Tết chính là chút hương thầm mà Hư Vô đã rắc vào thế giới nhiều bộn bề, toan lo của tôi, của chúng ta một mùa xuân rất diệu kỳ…

Trần Sương Lam
(29.11.2017)

Ảnh đại diện

Chia tay mùa xuân (Hư Vô): Chia Tay Mùa Xuân. Tuỳ bút Trần Sương Lam

Thơ tình yêu thời đại nào cũng lấn át các chủ đề khác nhất là mảng thơ về tình yêu nam nữ. Thơ tình theo tôi cảm nhận vui ít nhưng buồn thì nhiều nhất là những tình yêu tan vỡ. Hạnh phúc nhất của đời người có lẽ là yêu, được yêu và cùng bước chung một con đường đến cuối cuộc đời cùng với người mình yêu thương. Nhưng không phải ai yêu cũng được toại nguyện. Có khi yêu mà phải chia tay. Chia tay hai từ thôi cũng đủ gợi lên bao nỗi đau và có bao giờ ta tự hỏi ta có bao lần trong đời đã yêu và cũng đã chia tay với bao nhiêu cuộc tình. Sau mỗi cơn đau có lẽ trái tim ta hằn thêm một vết cắt để rồi ta lại tiếp tục tìm kiếm hay rồi chán nản buông xuôi. Tình tuyệt vọng đôi khi làm thăng hoa cuộc sống có lẽ vì do nỗi đau không dễ gì quên nên cứ luôn nhớ. Yêu và ly tan hình như không phải là mới nhưng chuyển tải nỗi niềm để đi vào tâm hồn người lại thuộc về tài năng của người sáng tác. Hãy dừng lại dăm ba phút của cuộc sống bộn bề, hãy thư giãn và nghe một nhà thơ kể chuyện tình buồn:

Chia Tay Mùa Xuân

Hôm chia tay Sài gòn vừa chớm Tết
Trong mắt em như thể đã ra giêng
Phố xá gập ghềnh chông chênh nhịp guốc
Còn xôn xao từng chiếc lá công viên.

Môi em hiền tựa như mùi hương cốm
Áp vào tôi ngọt đắm nụ tầm xuân
Giọt lệ không chân long lanh vàng đá
Đang mặn mà em đã vội quay lưng!

Bỏ lại Sài gòn rưng rưng góc phố
Ngọn đèn vàng xô dạt bước chân tôi
Trời đất mịt mù ngày mưa giông tới
Nơi máu trong tim chưa kịp luân hồi.

Mà cũng có đôi lần em biết khóc
Lối hẹn hò cỏ mọc đã xanh um
Để nhớ một thời em còn xoã tóc
Chỗ lời tình thổn thức tiếng vô ngôn…

Hư Vô

Tết đến có nghĩa là xuân về. Mùa xuân trong đời thực lẫn trong thơ làm bao nhiêu người đắm say, ngơ ngẩn. Bởi vì mùa xuân là mùa tình yêu, mùa của sự sống, của lộc biếc căng tràn. Tôi yêu Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử, yêu Xuân Thì của Phạm Duy, yêu Bến Xuân của Văn Cao… Đó là những bài thơ, bài hát ca ngợi mùa xuân đẹp, thanh xuân đẹp và tình yêu cũng đẹp như xuân. Hư Vô cũng đến với mùa xuân nhưng không phải bằng một tâm trạng lâng lâng hạnh phúc của thi nhân mà là một nỗi niềm thăm thẳm:

Hôm chia tay Sài gòn vừa chớm Tết

Tình yêu thường gắn liền với nỗi nhớ. Chỉ cần xa một vài giờ là nhớ là mong là đợi chờ gặp gỡ. Yêu thế mà chia tay. Anh phải đi, phải xa chưa một lời hứa hẹn tao phùng. Cô gái không kịp nói lời từ biệt nhưng đôi mắt đã thay điều muốn nói:

Trong mắt em như thể đã ra giêng

Mùa xuân mới bắt đầu, sự ngọt ngào vừa thấm vào cảnh vào hồn người thì nỗi buồn đã tràn đến bủa vây “chớm / chia tay” Ngữ nghĩa dường như đối kháng nhau tạo ra một nghịch cảnh trớ trêu:

Phố xá gập ghềnh chông chênh nhịp guốc
Còn xôn xao từng chiếc lá công viên.

Tình đang đắm say mà lại cách xa, con đường tình bắt đầu gập ghềnh cho em lao đao. Tiếng guốc khua trên hè với nhịp chông chênh, đổ vỡ, tiếng guốc tạo những âm thanh chí chát đánh thức cả những hàng cây lá công viên đang còn mơ màng trong giấc xuân. Và trong mắt em đang ánh lên tia nhìn xa vắng. Thời gian không dừng lại, đang trôi qua không thể níu giữ “chớm tết mà đã ra giêng”. Tôi cảm nhận cô gái đang mòn mỏi, đợi chờ.

Phương xa, nhân vật trữ tình mãi ngày nhớ đêm mong về một bóng hình trong tim và hình ảnh người con gái đã hiển hiện với muôn sắc màu, hương vị, hình ảnh vừa thực vừa mơ:

Môi em hiền tựa như mùi hương cốm
Áp vào tôi ngọt đắm nụ tầm xuân

Môi em thơm mùi hương cốm, mềm như vạt lụa và hiền tựa chiêm bao. Một người tình nho nhỏ, dễ thương. Ý thơ làm tôi nhớ đến một câu thơ của Đỗ Quý Toàn trong “Chuyện tình”:

Ôi anh yêu em vì em biết nói
Em đã biết thưa em còn biết gọi
(Đỗ Quý Toàn)

Chàng trai trong “Chuyện tình” yêu cái nết ngoan hiền ở người con gái, yêu tiếng dạ thưa ngọt ngào làm mê đắm lòng người còn chàng thi sĩ của chúng ta cũng yêu em bởi nết ngoan hiền. Tình yêu đến không chỉ vì nhan sắc mà còn từ sự dịu dàng trong em. Sự dịu dàng đã làm hồn chàng tan chảy đến mê đắm. Hư Vô diễn tả nụ hôn cũng thật lạ lẫm.

Khi đọc Nụ Hôn Đầu của Trần Dạ Từ tôi cảm nhận một không gian nhã nhạc, một hồn phách tiêu tan, một cảm xúc bàng hoàng và như một giọt nước mắt đang rơi trong chứa chan hạnh phúc của nụ hôn đầu đời:

Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh cỏ biếc trưa vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông.
(Trần Dạ Từ)

Nụ hôn đầu của Trần Dạ Từ đã làm thay đổi cả thế giới, cả không gian rất lặng ngoài kia, tất cả đều đổi thay hướng về cái đẹp một loạt màu sắc hiện lên cạnh nhau những gam màu hội hoạ đối lập mà đan xen của một cảm giác mê đắm, chất ngất “vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng, phượng đỏ” thật là khi yêu đâu đâu ta cũng thấy một màu yêu.

Thế giới tình yêu của Hư Vô cũng là thế giới của sắc màu yêu “hương cốm, nụ tầm xuân, vàng đá” nhưng ông không chọn sắc màu rực rỡ, lộng lẫy như Trần Dạ Từ mà thật hiền hoà, nhẹ nhàng của sắc xanh đồng nội toả ta từ cốm, sắc hồng toả từ những đoá tầm xuân nằm mơ màng bên lưng giậu, góc hiên nhà như màu hồng của má hồng con gái. Tôi yêu chút hây hây hồng trên đôi má thanh xuân.

Đi vào thế giới thơ Hư Vô là đi vào thế giới của sắc màu bình dị pha lẫn kiêu kỳ khiến nhan sắc em vừa mê đắm vừa hồn hậu, dịu dàng. Hôn em, hôn môi hiền, nụ hôn thơm như ướp mật. Mùi hương cốm toả nhẹ qua môi hôn, môi em xinh như nụ tầm xuân trinh nguyên của vườn thiếu nữ. Nụ hôn là hội tụ của hương hoa, của đất trời, của những gì thân thuộc của quê hương. Môi hôn vì thế dù đắm say vẫn đượm một chút gì hiền thục, đằm thắm. Tự nhiên hay là một lựa chọn mà thi sĩ đã đặt hương cốm cạnh nụ tầm xuân dường như chẳng có sự nối kết về thời gian. Cốm có vào mùa thu, hoa tầm xuân nở vào tháng chạp, tháng giêng. Tôi cho là một sự sắp xếp cố ý của thi sĩ để nới rộng biên độ thời gian để khẳng định tình yêu là vô tận ở đó không có không gian, cũng không có thời gian mà nơi đó chỉ là hội tụ của cả một khối tình. Câu thơ biểu lộ một niềm tin vào sự thuỷ chung son sắt trong tình yêu. Tình yêu đã cho nhân vật trữ tình đôi cánh bay lên vào huyền thoại. Hạnh phúc làm rưng rưng những giọt lệ long lanh như những hạt châu:

Giọt lệ không chân long lanh vàng đá

Âm vang của ngôn ngữ vì thế cũng mờ đi, nhoè dần trong suy tưởng. Tôi nghe được lời cám ơn thầm lặng của thi sĩ với người tình: Cám ơn em đã yêu anh. Cám ơn vì em chấp nhận sự cách xa vẫn yêu anh, cám ơn em đã cho anh một tình yêu ngọt ngào, cám ơn em đã luôn cho anh niềm tin vào độ bền của lòng chung thuỷ…

Nhưng niềm hạnh phúc không kéo dài, bóng mây đen đã che ngang mặt trời làm không gian thoáng đãng, rực rỡ bỗng tối sầm:

Đang mặn mà em đã vội quay lưng!

Em đã từng nói yêu tôi, em đã từng chung thuỷ với tình tôi, em đã từng chờ đợi ngày tôi về nhưng thật chóng vánh nhanh đến không ngờ “quay lưng!”

Dấu chấm cảm cuối dòng để biểu lộ nỗi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của kẻ đang yêu, được yêu và đang hạnh phúc với tình yêu. Nếu là tôi có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ hỏi lý do người bỏ ta đi chỉ đơn giản là câu hỏi chẳng bao giờ có câu trả lời mà cho dù có cố gắng trả lời chỉ là những lời không thật để cố gắng tránh làm tổn thương nhau. Tôi nghĩ thi sĩ không hỏi mà đây chỉ là cái cớ để anh trang trải nỗi niềm khi tình yêu đã mất:

Bỏ lại Sài gòn rưng rưng góc phố
Ngọn đèn vàng xô dạt bước chân tôi
Trời đất mịt mù ngày mưa giông tới
Nơi máu trong tim chưa kịp luân hồi.

Ý thơ làm tôi nhớ đến ca từ trong một bài hát của Trịnh Công Sơn “Em đi bỏ lại con đường/ Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em”. Một con đường thôi mà đã bao nhớ nhung còn đây là cả một thành phố của những con đường bao dấu chân qua. Tôi thích “Sài gòn rưng rưng góc phố”. Tiếng khóc nghẹn chưa tuôn thành giọt lệ chỉ mới rưng rưng mà chừng như trái tim đã xót. Tình yêu đã đọng lại thành giọt châu rơi, những giọt không chân, mênh mông trời đất bây giờ chỗ nào cũng là em, là bóng em, dáng em, bước chân, nụ hôn nồng nàn của em… giọng thơ hình như đã nghẹn dần thành một chuỗi bi thương, câu chữ như cuộc tình bị đẩy xô trôi dạt để rồi về lại nơi đây ngổn ngang, tăm tối, tù mù “Ngọn đèn vàng xô dạt bước chân tôi, trời đất mịt mùng, máu không kịp chảy trở về…”

Tôi cảm nhận không gian hình khối đang vỡ tan, dòng máu đang tuôn chảy, nỗi đau cào cấu linh hồn. Từng chữ, từng câu đang cứa nát tất cả, như muối đang chà xát vết thương ứa máu chưa lành để người con gái quay lưng kia cũng đôi lần “biết khóc”

Mà cũng có đôi lần em biết khóc
Lối hẹn hò cỏ mọc đã xanh um
Để nhớ một thời em còn xoã tóc
Chỗ lời tình thổn thức tiếng vô ngôn…

Giọt lệ của ăn năn, của nuối tiếc và cũng là một an ủi cho thi nhân khi tình yêu đã ngoài tầm với. Lối thu xưa, lối xuân xưa không còn em và tôi qua lại chỗ cỏ đã phủ xanh xao lòng phố.

Đau xót khó nguôi ngoai. Có lẽ nỗi đau còn vì tình chưa phai nên vẫn nhớ đến hình bóng của người xưa một thời tóc xoã xanh um như ngọn cỏ. Không thể nói ra lời tình nhưng trái tim vẫn thổn thức tiếng vô ngôn.

Con người sinh ra khó ai vượt qua được chữ tình. Tình yêu dù có một kết thúc trọn vẹn hay dở dang vẫn cứ đẹp. Nhưng có lẽ những cuộc tình không trọn vẹn sẽ làm người ta nhớ mãi, không quên, nhớ đến muôn đời. Chia tay – mùa xuân đặt cạnh nhau trong mối quan hệ tương phản càng làm dấy lên trong lòng ta một nỗi buồn vô hạn về kiếp tình ngắn ngủi của những người có duyên không phận và chính điều đó đã tạo cho nhân loại những bài thơ tình êm đềm như dòng sông trôi đi vào mênh mang của đất trời trong một trạng thái mông lung: Đời ta trôi về đâu, tình ta đi về đâu trong cái vô cùng vô tận của đất trời…

Cũng là cuộc chia tay nhưng thi sĩ đã chọn không gian mùa xuân chính điều này đã làm cho lần cuối cùng gặp gỡ không tuyệt vọng mà vấn vương, thương nhớ đến cả cuộc đời. Chia tay mùa xuân, chia tay hoàng hôn cũng vẫn là những cuộc chia tay đau khổ nhưng dường như thi sĩ vẫn kịp cho mình chiếc áo khoác mùa xuân phủ lên cuộc tình tan của mình một hương vị lạ: Tình xa nhưng không mất như mùa xuân đi nhưng rồi lại quay về dù đó là sự quay về của ký ức nhưng vẫn đáng quý, đáng yêu. Bài thơ buồn nhưng không bi luỵ. Tôi vẫn thấy mùa xuân đang lộng lẫy khoác áo lụa vàng đứng bên cạnh tôi với cái nắm tay thân thiết mà tôi đang cảm nhận: “Mùa xuân đang chạm tới da trần”. (Hư Vô)

Trần Sương Lam

Ảnh đại diện

Áo hạ vàng (Hư Vô): Áo Hạ Vàng. Thơ Hư Vô Mỏng Tênh Như Tơ Lụa. Tuỳ bút Trần Sương Lam

Mùa hè, mùa của hoa rực rỡ, của trái chín trĩu cành, của lời mời gọi ta đến với biển với nắng. Mùa hè mở vào tâm hồn ta những khát khao thầm kín, dấy lên trong ta những yêu thương, những đam mê bỏng cháy. Trong bài Hạ Hồng, Phạm Duy dường như cũng bốc cháy với mặt trời trên cao:

Mùa hè thiên nhiên như tỉnh giấc
Mùa hè đưa ta tới hồng hoang
Trần truồng yêu nhau trong trời đất
Mùa hè của uyên ương.

Hư Vô đến với mùa hè bằng khúc lục bát bềnh bồng, mơ hồ đến mênh mông:

Em qua bóng đổ hiên ngoài
Đàn chim sáo nhỏ vụt bay cuối ngàn
Giật mình hạ rớt thênh thang
Nở trên nhánh tóc em vàng cánh hoa.

Mặt trời lên cao nhưng không sáng chói, mặt trời được miêu tả một cách gián tiếp qua “bóng” em. Là bóng thôi, không là hình, bước vào thế giới tình yêu dường như ta đã chạm phải nỗi buồn và hình như ý niệm hiện hữu của “em” đang nhạt nhoà dần trong không gian, trong thời gian của một ngày nắng hạ. Thoáng thấy bóng em ngoài hiên, chỉ thoáng thấy bằng mắt hay bằng tâm không rõ nhưng rõ nhất là hình ảnh của đàn sáo nhỏ. Sáo vụt bay về cuối ngàn. Cách miêu tả âm thanh của thi sĩ lạ: “vụt” một động tác bay đột ngột, rất nhanh của cả đàn sáo. Ta nghe thật rõ tiếng đập cánh của đàn chim trong buổi trưa hạ, âm thanh của sự sống nhưng chỉ vút lên rồi tất cả lại rơi vào yên lặng. Trong cái tĩnh lặng của cõi tình tiếng đập cánh bay của đàn sáo nhỏ không chỉ khuấy động không gian mà còn khuấy động cả lòng người:

Giật mình hạ rớt thênh thang
Nở trên nhánh tóc em vàng cánh hoa.

Tôi ít thấy chữ “rớt” trong thi phẩm nhất là thơ tình. Chữ rớt thường được dùng như một khẩu ngữ. Nhà thơ chọn hạ rớt chứ không chọn hạ rơi (chữ rơi được dùng nhiều trong văn chương bình dân lẫn văn học viết). Khẩu ngữ vào thơ không làm câu chữ trở thành bình dân mà vẫn giữ được vẻ đẹp kiêu sa của nó. Rơi là một thanh bằng chưa đủ lực làm nhân vật trữ tình giật mình phải là rớt. Thanh sắc dấy động tất cả, khơi dậy tất cả một sự bừng thức của không gian “thênh thang”, một sự bừng thức của “anh”, về “em”. Cái đẹp cũng bừng thức, hoa là em, là mùa hạ, là hoa vàng – màu của mùa hè.

Nếu thi sĩ giật mình vì bóng em khơi dậy cả mùa hạ trong anh thì tôi giật mình vì chữ nghĩa vào tay thi sĩ nó không còn tuân theo qui luật vốn có của nó. Tôi đọc khá nhiều thơ, tôi đã gặp không ít trạng thái “Giật mình” của thơ xưa cũng như nay: Nguyễn Du viết “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh? Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Tú Xương viết Sông Lấp:”Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”, Nguyễn Duy viết: “Ánh trăng im phăng phắc/ đủ cho ta giật mình”. Giật mình của Nguyễn Du gợi cảm xúc thương thân của Kiều, giật mình của Tú Xương là nhớ tiếc những cái tốt đẹp cứ mất dần đi, giật mình của Nguyễn Duy là sự tự hối và cái giật mình của Hư Vô mới đậm chất lạ lùng sao? Một ngẫu hứng duy lý trong một tương quan chặt chẽ “em- mùa hạ- – nỗi nhớ- lãng quên- trở về” sự khuấy động tâm thức, thời gian, không gian làm cho ta cảm nhận chữ tình trong anh trĩu nặng và chân dung của “em” cứ mở rộng dần trong bức tranh mùa hè huyền diệu:

Nắng trong veo, thấu lụa là
Áo em mỏng quá lòng ta gập ghềnh
Dù là một thoáng lênh đênh
Đã nghe mùa hạ chảy trên phím đàn.

Mùa hạ đã định hình trong màu hoa vàng trên tóc em, mùa hạ lên cao nhập vào trong nắng tạo màu “trong veo”. Tôi thương nắng thuỷ tinh của Trịnh Công Sơn, tôi thích câu hỏi của nhạc sĩ với “em” màu nắng hay là màu tóc em? Nắng mùa hạ trong nhạc Trịnh như khối thuỷ tinh đúc cho nắng lung linh vàng rồi nắng đi vào trong mắt em. Một sự hoá thân, hoà nhập của hai vẻ đẹp: mặt trời-em. Tôi cũng thích cái nắng loạn trong thơ Hàn Mặc Tử “nắng ửng, nắng chang chang, nắng thơm” nắng hè chói chang, nóng rát không còn thay vào đó là nắng tươi, nắng thơm của gấm lụa, của dung nhan. Nắng đã trở thành biểu tượng cho cái đẹp. Nắng của Hư Vô “trong veo” nghĩa là nắng như tấm gương soi không đáy, nắng hữu hình đến trong veo. Chữ nghĩa tượng hình dần như chân dung “em” rõ dần. Không còn là bóng, không còn là mùi hương “hoa vàng” mà là hình hài, là xương thịt là vẻ đẹp kiêu sa. Tôi nghĩ Hư Vô đã dùng nét vẽ tượng trưng cho bức chân dung tình yêu của mình. Tôi nghe giọng thì thầm của thi sĩ. Em mềm như lụa, mong manh như tơ trời, áo là sương khói cho hồn ta thoáng gập ghềnh, lênh đênh. Nhan sắc của người tình sao mong manh, nét đẹp được lọc qua cảm xúc thật tinh tế, thật lãng mạn, vẻ đẹp vừa táo bạo nhục thể vừa thanh tao duyên dáng “trong veo, thấu,mỏng” nó làm tan chảy mọi cảm giác để chỉ còn đọng lại một cảm xúc tuyệt vời: “Đã nghe mùa hạ chảy trên phím đàn”.

Nguyễn Hồng Ân trong bài: “Chiều biển vắng thênh thang” đã viết: “Mang tên em chiều in màu lá / Vừa tàn mùa sen hạ cháy trên cành.”

Hạ cháy của Nguyễn Hồng Ân khơi gợi một sự bừng thức, ngỡ ngàng về mùa hè, Hư Vô lại cảm nhận “mùa hạ chảy trên phím đàn” thì quả là tuyệt bút. Chữ mềm như nhung lụa và tan chảy thành dòng âm nhạc thì không còn gì phải bàn đến vẻ đẹp của ngôn từ. Mỹ học của bài thơ toả từ hội hoạ màu sắc, từ thi ca mùa hạ chảy, từ âm nhạc trên phím đàn. Ta dường như lạc vào thế giới của cõi mơ, của âm nhạc, của cõi tình mê đắm. Ta đang tan chảy vào vẻ đẹp của đất trời, của tình yêu và đồng thời cũng tan chảy vào trong cảm xúc của Hư Vô. Tâm khơi, tình động cho quay quắt một hình hài:

Từ em xoã tóc sang ngang
Hàng cây nghiêng nón rộn ràng tiễn nhau.
Em mang mùa hạ qua cầu
Ta như khách lạ tìm đâu bóng mình.

Mái tóc thề, mái tóc bao lần vào thi ca tạo nên bao hình tượng thẩm mỹ đẹp lạ thường. Lúc còn đi học một cô bạn đã tặng tôi hai câu thơ:

Ta phiêu du mãi chưa về
Biết em còn để tóc thề hay không?

Tôi đã yêu mái tóc thề ngày đó, tôi không ngạc nhiên khi ký ức tình yêu của thi sĩ có mái tóc thề nhưng mái tóc ấy không phải xoã xuống tạo bóng mát cho tình yêu, tạo chiếc cầu cho anh sang em mà là mái tóc xoã để em đi lấy chồng. Oái oăm và trớ trêu là ở đó. Thiên nhiên sao vô tình với nỗi đau của kẻ tình si: “Hàng cây nghiêng nón rộn ràng tiễn nhau.”

Buồn vì tình yêu không trọn vẹn, buồn khi mình tiễn đưa người yêu lấy chồng, thi sĩ lạc lõng trong chốn trần gian “rộn ràng”. Mùa hạ, mùa tình yêu, mùa của hoan lạc, hạnh phúc viên mãn cũng theo em, thi sĩ trở thành khách lạ ngay trong thế giới của riêng mình “Ta như khách lạ tìm đâu bóng mình”, hình như tôi đang cảm nhận nỗi chua chát đến tê đầu lưỡi, nỗi cô đơn đến rợn ngợp “khách lạ không tìm thấy bóng mình”. Tôi lại thấy đâu đây bóng hình Hàn Mặc Tử:

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi thôi ước mơ.

Với Mặc Tử khi em lấy chồng là kết thúc tất cả: cõi mơ, tình mộng, niềm vui, nỗi buồn… Hư Vô không kết thúc vẫn đong đầy những khát khao:

Bên đời nắng có lung linh
Để em giấu kín chút tình phôi pha
Còn thương góc phố quê nhà
Vàng em áo hạ, buồn ta mưa về…

Nắng đâu còn trong veo, nắng đã lung linh nhuốm màu hư ảo, màu của lãng quên, thi sĩ vẫn mong mỏi đến tuyệt vọng “em giấu kín chút tình phôi pha”. Mối tình ấy sâu đậm đến khắc cốt ghi tâm, không thể quên và không bao giờ quên. Tình ấy mãi vần vương đến “còn thương góc phố quê nhà”, nơi chúng ta từng hẹn, nơi tình yêu của tuổi học trò bừng cháy những khát khao, chữ nghĩa bây giờ dung dị, giản đơn như một khúc ca dao buồn, da diết vang lên từ làng quê Nam bộ “còn thương” hai thanh bằng tạo âm hưởng kéo dài thê thiết của mối tình quá khứ làm sao quên, thương góc phố, quê nhà lặng lẽ, thương hạ vàng áo em và thi sĩ càng cảm nhận nỗi cô đơn cứ rộng đến vô cùng để rôi kết đọng lại thành những cơn mưa hạ ướt đẫm hồn, ướt đẫm tình, tình vô biên. Giấu… như một quãng lặng của cảm xúc ngậm ngùi, của mối u tình mà dẫu cơn mưa có ướt, có thấm đẫm cũng không thể phôi pha. Áo hạ vàng- một bài thơ của tình yêu dang dở, khúc ca buồn của Hư Vô về một cuộc tình đã qua nhưng không tan biến. Tình đã hoà thành dòng chảy của thời gian để rồi rung lên thành cung đàn bất tận. Tôi như thấy thi sĩ ngồi giữa biển hoa vàng nghe hạ chảy trên tay. Không gian, thời gian dường như trầm mặc như tâm trạng đầy uẩn khúc của thi sĩ. Hạ vàng hay áo em nhuộm vàng mùa hạ, nhuộm hồn anh tơi tả những dấu mưa.

Trần Sương Lam
(Kính tặng nhà thơ Hư Vô.)
22/11/2017

Ảnh đại diện

Thêm một lần tháng bảy (Hư Vô): Thoáng cảm nhận bài thơ: “Thêm Một Lần Tháng Bảy” của thi sĩ Hư Vô. Tuỳ bút Trần Sương Lam

Kỷ niệm đối với tôi đó là những gì thật sự trân quý. Có thể đó là một kỷ niệm vui cũng có khi là kỷ niệm buồn. Nhưng cho dù vui hay buồn nó vẫn luôn hiện diện trong tâm hồn tôi, ru ngủ tôi trong những tất bật của cuộc sống. Tôi thường gọi đó là những hoài niệm khó quên. Nhất là những hoài niệm về những mối tình đã đi qua trong lứa tuổi học trò đẹp như những bông hoa phượng vĩ trên cành chỉ rực rỡ mỗi độ hè về.

Nhà thơ Hư Vô cũng đi qua tuổi học trò với những mối tình sầu mãi mãi còn trong bao thăng trầm của đời sống. Thêm một mùa thu qua, thêm một tuổi thì nỗi nhớ dường như càng nồng nàn, say đắm hơn vì mối tình ấy chưa đi đến cuối đường đã vội vàng rẽ nhánh để lại sau lưng những đau khổ, nuối tiếc khôn nguôi như bài thơ “Thêm Một Lần Tháng Bảy” của thi sĩ Hư Vô

Tôi không nhớ Sài gòn trước đây tháng bảy thế nào? Vì tháng bảy là tháng nghỉ hè. Tôi thuở nhỏ lại là con mọt sách hình như chữ “chơi” với tôi là một khái niệm mơ hồ. Nhưng khi đọc bài thơ thì trong tôi mùa mưa Sài gòn, mùa thu Sài gòn như đang hiển hiện trước mắt bềnh bồng, mơ hồ, xa xăm… Một Sài gòn chưa đi đã nhớ, càng ở càng thương. Tôi nhớ những con đường cây xanh bóng mát ngày hai buổi đi về. Con đường Đoàn Thị Điểm, Ngô Thời Nhiệm, Phan Thanh Giản, Bà Huyện Thanh Quan… sao mà thương đến thế. Thế giới tôi chỉ đơn giản là con đường đến trường với những tàng cây rợp mát, hoa Ngọc Lan thơm ngát con đường mưa. Nhưng đối với Hư Vô lại là con đường của hẹn hò, của tình yêu tuổỉ học trò thơm ngát. Mưa, tà áo dài, mái tóc thề ngang lưng ngày ấy có lẽ đã trở thành một hình ảnh quen thuộc của thơ ca trước đây:

Mưa Sài Gòn còn thơm dáng tóc
Thả xuống lưng chừng vai áo xưa
Đường Tự Do hay Thương Xá Tax
Chỗ nào cũng có bóng em qua!
(Hư Vô)

Mưa thơm. Mưa không màu, không mùi vào trong thơ thành mưa thơm. Mưa thơm vì mưa thấm em, thấm mùi hương áo em, tuổi thanh xuân, mùi thơm thật khó quên, mùi thơm làm bao nhiêu trái tim phải bối rối ngăn cảm xúc đang tuôn chảy thành dòng. Có một thời tôi rất yêu “Một Chút Mưa Thơm”của Mường Mán nhà thơ của Sinh viên Sài Gòn những năm 70.

Mưa thân ái trên tay
Tay mỏi rời trong tóc
Tóc nhớ ai mọc dài
Mắt nhớ ai muốn khóc
Tay của em
Tóc của em, và
Mắt của em
Của mưa của mưa, ừ
Của mưa
Tay em tay mưa
Tóc em tóc mưa
Mắt em mắt mưa…
(Mường Mán)

Để rồi cũng cơn mưa thơm ấy vào tôi cũng trở thành ám ảnh chẳng nguôi ngoai:

Cho em chút mưa thơm
Rơi trên tay ngọt ngào
Mưa ơi em quên hết
Giọt sầu môi run run
(Mường Mán)

Mở đầu không gian tình yêu của Hư Vô là không gian của khứu giác: tưởng nhớ một mùi hương. Không hiểu sao khi tôi đọc “Mưa Sài Gòn còn thơm dáng tóc” tôi lại nhớ đến một tình Kim Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du với câu thơ thật lãng mạn “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình” mùi hương “xộc” vào tâm hồn ta; mưa và mái tóc dài ngang lưng thật ấn tượng. Người lãng mạn ai mà không yêu mưa. Những cơn mưa thấm đất, thấm vào lòng người, thấm vào cuộc tình nỗi nhớ miên man:

Ở đầu kia nỗi nhớ
Nằm đếm tiếng mưa rơi
Đếm mấy triệu hạt rồi
Mà chưa vơi nỗi nhớ
(Trần Đình Chính)

Để rồi những hạt mưa thấm đẫm mái tóc em ướt bờ vai con gái thành một ám ảnh không phai. Tháng bảy mưa. Mưa suốt cả ngày, cả chiều và cả đêm. Những hàng cây rũ rượi trong mưa. Những mái hiên che dọc đường Tự Do, thương xá Tax thành chỗ trú mưa, thành chốn em qua. Những con đường em đến và đi trong cuộc tình đã trở thành con đường mang tên em.

Chỗ nào cũng có bóng em qua!
(Hư Vô)

Tôi thích ngôn ngữ thơ của Hư Vô đơn sơ nhưng gợi. “Chỗ nào” thì hình như đã là tất cả, nghĩa là thế giới của anh, em đã chiếm lĩnh tất cả nhưng buồn ở chỗ nó không phải “dáng em” mà là “bóng em” nghĩa là nó đã trở thành mơ hồ, sương khói, chỉ là bóng không còn là hình, chỉ còn là hư ảo với bao nhớ tiếc khôn nguôi.

Bốn câu thơ đầu, Hư Vô để chút hương gây mùi nhớ, để cơn mưa làm tan biến cái hữu hình và bức chân dung tình yêu trải rộng một nỗi nhớ “hư hao”.

Phố mưa- mái tóc- con đường cuộn tròn lại thành nỗi nhớ, thành nụ hôn đầu của em mười sáu tuổi:

Thanh xuân lại chìm ngập không gian yêu. Thời gian quay lại thanh xuân. Hư Vô quay lại với nụ hôn đầu mê đắm:

Phố xá dường như đang mười sáu
Từ em thảng thốt nụ hôn đầu
Còn giấu hồn tôi trong vạt áo
Cho nợ nần quấn quít đời nhau.
(Hư Vô)

Nụ hôn vội vàng, cuống quýt, lơ ngơ sao mà dễ thương chi lạ. Nụ hôn mà bao năm rồi vẫn cứ làm ta ngơ ngẩn, ngẩn ngơ. Nụ hôn mà Trần Dạ Từ từng say đắm đến dại khờ:

Lần đầu ta ghé môi hôn
Trăm con ve nhỏ hết hồn kêu vang.
(Trần Dạ Từ)

Nụ hôn “hết hồn” trăm con ve nhỏ, hết hồn chàng thi sĩ đa tình và “em” cũng ngẩn ngơ theo. Nụ hôn của Hư Vô với tình nhân là “thảng thốt”. Cả hai thi sĩ đều có một cảm giác bất ngờ, bàng hoàng đến ngẩn ngơ với nụ hôn đầu đời và có lẽ thế giới đang chuyển động phải dừng lại nhiều giây chờ nụ hôn đầu. Câu thơ gợi lại trong ta- những người đã từng có “nụ hôn đầu” một cảm xúc khó diễn tả thành lời. Nụ hôn là kết đọng của cảm xúc, của tình yêu, của những thăng hoa. Nụ hôn đầu của Hư Vô làm sống lại những gì già cỗi trở lại thanh xuân và cũng từ đây cõi riêng của “anh và em” bắt đầu những nợ nần, quấn quít đời nhau. Giọng thơ mê man, chìm đắm trong cõi riêng, ta cảm nhận hình như đã đủ đầy hạnh phúc, đủ đầy yêu thương.

Tình yêu đẹp như một giấc chiêm bao. Câu thơ dường như là chiêm nghiệm của thi sĩ: Cái gì đẹp thường không ở với người ta lâu. Mưa tháng bảy và giấc mơ dường như đã báo trước sự tan rã của đôi tình nhân:

Không phải chiêm bao thì cũng đã
Có một thời rộn rã tình nhân
Để em ve vuốt cùng tháng bảy
Những hạt mưa lăn ướt môi trần.
(Hư Vô)

Tôi đã từng đầu trần trong mưa lang thang bao nhiêu con đường những lúc cô đơn và tôi hiểu mưa là mở ra một thế giới tâm trạng với bao uẩn khúc. Hư Vô đã đưa tình yêu của mình vào thế giới mưa- thế giới của bao nỗi ngậm ngùi. Mưa vuốt ve ướt môi trần tình nhân. Những giọt mưa ve vuốt em, cái lạnh cũng theo về. Mưa tháng bảy dường như đã đưa ta vào thế giới lạnh lẽo với “những hạt mưa lăn”, mưa không rơi mà lăn như tô son lên môi tình nhân. Môi như mềm hơn nhưng lại ướt trong lạnh lẽo.Tôi cảm nhận sự chia ly đã bắt đầu từ đây, từ những giọt mưa lăn trên đôi môi người con gái.

Để rồi cái ngày chia ly cũng đến, cũng chạm vào cuộc tình thơ mộng thuở đầu đời:

Cũng có đôi lần em biết khóc
Khi phố phường đã vắng bóng tôi
Dù Sydney hay Los Angeles
Thì buồn nào cũng giống nhau thôi.
(Hư Vô)

Nhà thơ đã tượng hình một không gian ảo trên cái nền hiện thực Sài gòn- Sydney- Los Angeles nơi Hư Vô đã từng đặt dấu chân qua: Sài gòn chỉ còn là miền ký ức, tình yêu anh đã để lại nơi này, để lại em với “dòng nước mắt” cùng nỗi nhớ tình nhân. Em biết khóc đôi lần có phải Hư Vô tham lam muốn người ở lại cả đời cứ nhớ, cứ thương một người mù khơi hay nhà thơ đang hỏi lại mình. Có bình yên nơi xa xôi không? Hay vẫn cứ canh cánh một nỗi niềm ray rứt khôngnguôi. Tình buồn và nỗi nhớ khó nguôi ngoai. Tôi không còn bên em, không gian chúng mình thật diệu vợi, lạc nhau, mất nhau rồi nỗi buồn như nhân đôi “Dù Sydney hay Los Angeles/ Thì buồn nào cũng giống nhau thôi.”

Thể thơ thất ngôn phù hợp với biểu hiện cảm xúc tâm trạng, cả câu thơ chỉ duy nhất một thanh bằng tạo một cảm giác lạc lõng, chơi vơi không định hướng để rồi chìm đắm trong cõi sầu bát ngát. Dòng tiếp theo lại có đến 5 thanh bằng để rồi kết thúc bằng âm vang “thôi”. Thôi là kết thúc, là chấm dứt là không còn gì. Chữ nghĩa dường như nhoè đi trong sự se xót. Buồn, em ở lại, tôi đi, sự chia cắt rạch ròi cả hai không còn chung lối, tình lỡ, nỗi buồn như ngân vang thành tiếng thơ đến xé lòng.

Tháng bảy mùa ngâu, mưa như trút nước. Mưa gợi nhớ bao nhiêu điều; có điều mọi người ai cũng hiểu nhưng có điều chỉ có mình nhà thơ hiểu:

Mà chỉ riêng một mình tôi hiểu
Đường ngược chiều mù lá sương bay
(Hư Vô)

Con đường tình yêu không còn chung một lối. Tôi và em ngược hướng nhau rồi. Sự dõi tìm là vô vọng. Chiều đã xuống, sương phủ nhạt nhoà và lá bay khi mùa thu tới. Tất cả đã chìm khuất, mịt mờ. Trong sương khói của mưa, của mùa thu bóng em vẫn hiện ra thật đậm, thật rõ ràng với những bước chân thật dài, bước chân đuổi theo tình yêu đã mất dần dấu vết:

Em bước cho dài thêm tháng bảy
Cũng đâu níu kịp một hình hài…
(Hư Vô)

Tôi chạnh thương người con gái với tình đầu dang dở, có thể đối với một ai đó nó chỉ là một thoáng phôi pha nhưng có thể với ai đó thì ngàn năm vẫn không quên.

Tình yêu chỉ mang đến cho ta thoáng ngậm ngùi, nỗi khổ đau nhất là đối với những tình yêu không trọn vẹn.

Thêm một lần tháng bảy là thêm khoảng cách của chia ly, thêm một lần nhói buốt trái tim yêu, thêm một nỗi niềm thống khổ của hai con người yêu mà không thể ở gần nhau. Đã là mưa thì ở đâu cũng thế. Cũng buồn như nhau. Đã là ly tan thì ở đâu cũng đau. Mùa mưa vẫn cứ về như một quy luật tuần hoàn của thời gian nhưng tình yêu thì không có quy luật, đến và đi là lẽ vô thường. Vì vô thường nên ta cứ đau mãi không nguôi, nên vẫn cứ cúi xuống khóc cho những mối tình dang dở…

Trần Sương Lam

Trang trong tổng số 2 trang (19 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: