Trang trong tổng số 9 trang (81 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Kết thúc và khởi đầu (Wisława Szymborska): Bản dịch của Joanna Trzeciak

The end and the beginning

After every war
someone has to clean up.
Things won’t
straighten themselves up, after all.

Someone has to push the rubble
to the side of the road,
so the corpse-filled wagons
can pass.

Someone has to get mired
in scum and ashes,
sofa springs,
splintered glass,
and bloody rags.

Someone has to drag in a girder
to prop up a wall.
Someone has to glaze a window,
rehang a door.

Photogenic it’s not,
and takes years.
All the cameras have left
for another war.

We’ll need the bridges back,
and new railway stations.
Sleeves will go ragged
from rolling them up.

Someone, broom in hand,
still recalls the way it was.
Someone else listens
and nods with unsevered head.
But already there are those nearby
starting to mill about
who will find it dull.

From out of the bushes
sometimes someone still unearths
rusted-out arguments
and carries them to the garbage pile.

Those who knew
what was going on here
must make way for
those who know little.
And less than little.
And finally as little as nothing.

In the grass that has overgrown
causes and effects,
someone must be stretched out
blade of grass in his mouth
gazing at the clouds.

Ảnh đại diện

Kết thúc và khởi đầu (Wisława Szymborska): Bản dịch của Takya Đỗ

Sau mỗi cuộc chiến tranh
Ai đó phải dọn dẹp.
Trật tự sẽ không
tự tái lập.

Ai đó phải tấp đống đổ nát
vào rệ đường,
lấy lối cho
những chuyến xe chất đầy xác chết.

Ai đó sẽ phải lấm lem
bùn đất và tro bụi
những lò xo đi-văng
những mảnh kính vỡ
và những miếng giẻ thấm máu.

Ai đó phải kéo một thanh xà về
dưới bức tường, chống đỡ.
Ai đó phải lắp kính cửa sổ,
ráp cánh cửa đi vào bản lề.

Cảnh đó chẳng ăn ảnh,
và mất hàng năm trời.
Mọi máy ảnh đã ra đi
sang một cuộc chiến khác
Những cây cầu phải quay trở lại
và cả những nhà ga nữa.
Những tay áo sẽ rách sờn
vì phải xắn lên.

Ai đó, chổi trong tay,
vẫn nhắc lại nó diễn ra thế nào.
Ai đó khác lắng nghe
gật gật cái đầu chưa bị chặt.
Song đã có những người bên cạnh
bắt đầu đi tới đi lui
vì thấy nhàm chán.

Ai đó vẫn thỉnh thoảng
đào bới dưới bụi cây
những bằng chứng đã rỉ sét
và mang chúng ra đống rác.

Những người từng biết
những gì đã diễn ra nơi đây
sẽ phải nhường bước
cho những người biết chút ít.
Và ít hơn cả ít.
Và rốt cục ít đến mức hầu như chẳng biết.

Trong đám cỏ đã mọc cao
nhân và quả
ai đó hẳn đang nằm dài
nhay nhay cọng cỏ
nhìn mây bay.

Ảnh đại diện

Một chút về tâm hồn (Wisława Szymborska): Bản dịch của Stanislaw Baranczak, Clare Cavanagh

A few words on the soul

We have a soul at times.
No one’s got it non-stop,
for keeps.

Day after day,
year after year
may pass without it.

Sometimes
it will settle for awhile
only in childhood’s fears and raptures.
Sometimes only in astonishment
that we are old.

It rarely lends a hand
in uphill tasks,
like moving furniture,
or lifting luggage,
or going miles in shoes that pinch.

It usually steps out
whenever meat needs chopping
or forms have to be filled.

For every thousand conversations
it participates in one,
if even that,
since it prefers silence.

Just when our body goes from ache to pain,
it slips off-duty.

It’s picky:
it doesn’t like seeing us in crowds,
our hustling for a dubious advantage
and creaky machinations make it sick.

Joy and sorrow
aren’t two different feelings for it.
It attends us
only when the two are joined.

We can count on it
when we’re sure of nothing
and curious about everything.

Among the material objects
it favors clocks with pendulums
and mirrors, which keep on working
even when no one is looking.

It won’t say where it comes from
or when it’s taking off again,
though it’s clearly expecting such questions.

We need it
but apparently
it needs us
for some reason too.

Ảnh đại diện

Một chút về tâm hồn (Wisława Szymborska): Bản dịch của Takya Đỗ

Chúng ta có tâm hồn đôi lúc
Chẳng ai có nó mọi lúc và bất tuyệt.

Ngày lại ngày, năm lại năm
có thể qua đi mà nó không hiện diện.

Thỉnh thoảng chỉ trong những phút hân hoan
hay trong cơn sợ hãi thời thơ dại
nó đậu lại lâu hơn.
Thỉnh thoảng chỉ trong nỗi ngạc nhiên
nhận ra mình luống tuổi.

Nó hiếm khi giúp ta
trong sự đời vất vả
như dịch chuyển tủ đồ
hay mang vác hành lý
hay cuốc bộ dặm trường trong đôi giày quá chật

Khi ta điền các biểu mẫu khảo sát,
hay thái thịt,
như thường lệ nó nghỉ phép.

Cả ngàn cuộc chuyện trò của ta nó mới tham gia một cuộc,
mà cũng không nhất thiết, vì nó ưa tĩnh mịch.

Lúc thân thể ta trở nên nhức nhối và mỏi mệt,
nó lặng lẽ đào nhiệm.

Nó khắt khe: nó không thích thấy chúng ta đàn đúm,
những tranh giành của chúng ta vì lợi thế bất kỳ
và những quan tâm ồn ào khiến nó phát ớn.

Niềm vui và nỗi đau
đối với nó đâu có gì khác biệt.
Nó chỉ đến với ta khi hai thứ đó hoà làm một.

Ta có thể trông cậy vào nó
khi ta chẳng tin chắc về một thứ gì
và tò mò về mọi thứ.

Trong những vật hữu hình
nó ưa thích những chiếc đồng hồ quả lắc
và những tấm gương cứ miệt mài chiếu phản
kể cả khi không một ai soi ngắm.

Nó chẳng bảo nó từ đâu đến
hay khi nào nó sẽ lại biến mất,
nhưng đó là những câu hỏi hiển nhiên nó đang chờ đón.

Tựa hồ,
như ta cần có nó,
vì một nguyên nhân nào đó
nó cũng cần ta.

Ảnh đại diện

Về cái chết không hề phóng đại (Wisława Szymborska): Bản dịch của Stanislaw Baranczak, Clare Cavanagh

On death, without exaggeration

It can’t take a joke,
find a star, make a bridge.
It knows nothing about weaving, mining, farming,
building ships, or baking cakes.

In our planning for tomorrow,
it has the final word,
which is always beside the point.

It can’t even get the things done
that are part of its trade:
dig a grave,
make a coffin,
clean up after itself.

Preoccupied with killing,
it does the job awkwardly,
without system or skill.
As though each of us were its first kill.

Oh, it has its triumphs,
but look at its countless defeats,
missed blows,
and repeat attempts!

Sometimes it isn’t strong enough
to swat a fly from the air.
Many are the caterpillars
that have outcrawled it.

All those bulbs, pods,
tentacles, fins, tracheae,
nuptial plumage, and winter fur
show that it has fallen behind
with its halfhearted work.

Ill will won’t help
and even our lending a hand with wars and coups d’etat
is so far not enough.

Hearts beat inside eggs.
Babies’ skeletons grow.
Seeds, hard at work, sprout their first tiny pair of leaves
and sometimes even tall trees fall away.

Whoever claims that it’s omnipotent
is himself living proof
that it’s not.

There’s no life
that couldn’t be immortal
if only for a moment.

Death
always arrives by that very moment too late.

In vain it tugs at the knob
of the invisible door.
As far as you’ve come
can’t be undone.

Ảnh đại diện

Ảo tưởng (Wisława Szymborska): Bản dịch của Stanislaw Baranczak, Clare Cavanagh

Utopia

Island where all becomes clear.
Solid ground beneath your feet.
The only roads are those that offer access.
Bushes bend beneath the weight of proofs.

The Tree of Valid Supposition grows here
with branches disentangled since time immemorial.

The Tree of Understanding, dazzlingly straight and simple,
sprouts by the spring called Now I Get It.

The thicker the woods, the vaster the vista:
the Valley of Obviously.

If any doubts arise, the wind dispels them instantly.

Echoes stir unsummoned
and eagerly explain all the secrets of the worlds.

On the right a cave where Meaning lies.

On the left the Lake of Deep Conviction.
Truth breaks from the bottom and bobs to the surface.

Unshakable Confidence towers over the valley.
Its peak offers an excellent view of the Essence of Things.

For all its charms, the island is uninhabited,
and the faint footprints scattered on its beaches
turn without exception to the sea.
As if all you can do here is leave
and plunge, never to return, into the depths.

Into unfathomable life.

Ảnh đại diện

Ảo tưởng (Wisława Szymborska): Bản dịch của Takya Đỗ

Hòn đảo - nơi mọi thứ đều minh xác.
Nơi đây ta có thể đứng trên mặt đất chứng nghiệm.
Ngoại trừ lối vào, không có con đường nào khác.
Những bụi cây trĩu xuống vì lời giải đáp.

Nơi đây mọc lên Cây Phỏng đoán Đúng/giả thuyết đúng
với những cành nhánh muôn năm tách bạch.

Cây Trí tuệ thẳng tắp và chói ngời,
kề bên dòng suối có tên À Ra Thế.

Càng vào sâu trong rừng, khung cảnh càng rộng mở
Thung lũng Hiển minh.

Nếu có bất kì nghi ngờ nào, gió sẽ xua tan.

Những tiếng vọng nổi lên không từ giọng nào gọi đến
và sẵn lòng giảng giải bí mật của vạn vật.

Bên phải là hang động nơi chứa đựng Ý nghĩa.
Bên trái là Hồ Đức tin Sâu sắc.
Chân lý thoát ra từ đáy và nhẹ nhàng nổi lên mặt nước.

Cao như ngọn tháp vượt trên thung lũng là Niềm tin Không lay chuyển.
Từ đỉnh nó có thể thấy Bản chất của Vạn vật.

Dù hấp dẫn là thế, hòn đảo này vẫn hoang vu,
và những dấu chân mờ trên bờ cát
tất thảy, không có ngoại lệ, đều hướng ra biển.
Tựa hồ ta chỉ muốn rời khỏi nơi đây
và vĩnh viễn dấn mình vào biển thẳm.

Vào cuộc sống mà ta không thể nào đoán định.

Ảnh đại diện

Ba từ kỳ quặc nhất (Wisława Szymborska): Bản dịch của Stanislaw Baranczak, Clare Cavanagh

The three oddest words

When I pronounce the word Future,
the first syllable already belongs to the past.

When I pronounce the word Silence,
I destroy it.

When I pronounce the word Nothing,
I make something no non-being can hold.

Ảnh đại diện

Ba từ kỳ quặc nhất (Wisława Szymborska): Bản dịch của Takya Đỗ

Khi tôi phát âm từ Tương lai,
âm tiết đầu tiên đã lui về quá khứ.

Khi tôi phát âm từ Tĩnh lặng,
Tôi phá vỡ tĩnh lặng ấy.

Khi tôi phát âm từ Hư không
Tôi tạo ra cái không hiện diện trong bất kỳ cái không hiện hữu.

Ảnh đại diện

Về cái chết không hề phóng đại (Wisława Szymborska): Bản dịch của Takya Đỗ

Nó không biết hài hước,
chẳng biết gì về những vì sao, những cây cầu
về dệt vải, đào mỏ, làm ruộng
về đóng tàu hay nướng bánh.

Trong cuộc chuyện trò của ta về kế hoạch ngày mai
nó sẽ chen vào câu chốt
mà câu ấy luôn không ăn nhập.

Nó thậm chí không biết làm những việc
là một phần khi nó tác nghiệp:
đào huyệt
đóng quan tài
dọn những thứ nó bày ra cho sạch.

Bận lo giết chóc
nó làm việc thật lộn xộn
thiếu hệ thống hoặc tập dượt
như thể mỗi chúng ta đều là người đầu tiên nó giết.

Nó hân hoan với những niềm vui chiến thắng,
nhưng biết bao thảm bại
những đòn giáng trượt
và những cuộc tấn công lặp đi lặp lại!

Đôi khi nó chẳng đủ sức
đánh ngã một con ruồi bay lơ lửng.
Với rất nhiều sâu bướm
thi bò, nó thua cuộc.

Tất cả những bầu củ, những vỏ quả
những xúc tu, những vây, những quản bào
bộ lông vũ mùa hợp hoan, và mùa đông là bộ lông mao
cho thấy nó đã tụt hậu
bởi làm việc trễ nải.

Hiểm ác chẳng thể đủ được
và thậm chí ta có giúp nó thêm bằng chiến tranh và đảo chính
vẫn là quá ít.

Những trái tim vẫn đập trong quả trứng.
Xương thịt bé em vẫn lớn.
Những cái hạt, gắng hết sức mình, chồi ra đôi lá mầm bé bỏng
và thường khi là những cây cao ở phía chân trời.

Bất kể ai khẳng định rằng nó quyền năng vô hạn
thì chính nó là bằng chứng sống
rằng điều đó không đúng.

Chẳng có cuộc đời nào
mà không thể là bất diệt
dù chỉ là trong khoảnh khắc.

Cái chết
vào khoảnh khắc ấy luôn đến quá muộn.

Một cách vô ích, nó ráng kéo nắm đấm
của cánh cửa không nhìn thấy được.
Ai đã đến tận đây
bất khả vãn hồi.

Trang trong tổng số 9 trang (81 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: