27/04/2024 05:48Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thiên Hưng trấn phú
天興鎮賦

Tác giả: Nguyễn Bá Thông - 阮伯聰

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trần
Đăng bởi Vanachi vào 11/06/2008 11:44

 

Nguyên tác

瀑布懸霜,龍隄倚空。
傘圓撐空而鎮北,沱江漱玉以流東。
此天地設險,以壯南極坤維之勢;而藝皇駐驆,以開萬世中興之功。

觀其:聯洛牢關,控扼雲徼。
襟帶百蠻,喉咽六詔。
嶜岏崷崒,萬山環擁而青來;蕩潏汪洋,眾水奔騰而白繞。
捍諸鎮之限藩;據上流之津要。

爾乃:楩柟栝柏,杞梓豫章。
菽麥旆旆兮堆壟,桑麻隧隧兮成行。
羽毛齒革兮,波及於鄰界;全銀珠玉兮,衍溢於邊疆。
槎浮索引,鳥道兔坑。
輦琛獻贄,俯仰觀光。
誠為國家之外府,而萬寶之所珍藏。

思昔:鰲極震驚,蘿圖顛躓。
厄遭四百,運丁潤李。
荒淫無度,昌王移漢祚之隆;狐媚披猖,武氏竊唐家之器。
日月昏而無光,天地凜其將毀。
惟藝皇之嫌親,常小心之惴惴。
逮無可於奈何,乃入山而逃避。
捫蘿萬里,而雪染千莖;回首七陵,而血班雙淚。
瞻翠華兮搖搖,儼六龍之淚止。
翕諸侯兮影從,蓊群英兮麇至。
熊羆之士,三千而同心;貔虎之軍,百萬而來萃。
整大駕以回京,繽壺漿而迎餽。
指揮而妖孽迎降,談笑而兇徒送死。
洗六合之腥羶,蕩宮庭之氛翳。
懸日月於中天,奠丕基於萬世。

然後知:藝皇微斯鎮,安能成功之巍巍;
斯鎮微藝皇,安能稱嘉名之煒煒哉!

嗚呼!噫嘻!
雲棧縈紆,劍閣穹崇,雖足以脫明皇之難,而玉纍淹流,不能回唐轍而東;
淆隴險阻,洛陽適中,雖足以至平王之幸,而五城自小,不能返岐周之封。

然後知:藝皇之功,天興之鎮,歷萬世而莫興之匹美而比隆也。

乃拜手稽首而為之歌曰:
壯哉天興,為南方之表極兮。
啟我皇圖垂千憶兮,
於維藝皇,不恃險而恃德兮。

Phiên âm

Bộc bố huyền sương, long đê ỷ không.
Tản Viên xanh không nhi trấn bắc, Đà giang thấu ngọc dĩ lưu đông.
Thử thiên địa thiết hiểm, dĩ tráng Nam cực khôn duy chi thế; nhi Nghệ Hoàng trú tất, dĩ khai vạn tuế trung hưng chi công.

Quan kỳ: liên lạc Lao quan, khống ách Vân khiếu.
Khâm đái bách Man, hầu yết lục Chiếu.
Toàn ngoan tù tốt, vạn sơn hoàn ủng nhi thanh lai; đãng quyết uông dương, chúng thuỷ bôn đằng nhi bạch nhiễu.
Hãn chư trấn chi hạn phiên; cứ thượng lưu chi tân yếu.

Nhĩ nãi: biền nam quát bách, kỷ tử dự chương.
Thúc mạch bái bái hề đôi lũng; tang ma luỵ luỵ hề thành hàng.
Vũ mao xỉ cách hề, ba cập ư lân giới; kim ngân châu ngọc hề, diễn dật ư biên cương.
Tra phù sách dẫn, điểu đạo thố khanh.
Liễn thâm hiến chí, phủ ngưỡng quan quang.
Thành vi quốc gia chi ngoại phủ, nhi vạn bảo chi sở trân tàng.

Tư tích: ngao cực chấn kinh, la đồ điên chí.
Ách tao tứ bách, vận đinh nhuận quí.
Hoang dâm vô độ, Xương Vương di Hán tộ chi long; hồ mị phi xương, Vũ thị thiết Đường gia chi khí.
Nhật nguyệt hôn nhi vô quang, thiên địa lẫm kỳ tương huỷ.
Duy Nghệ Hoàng chi hiềm thân, thường tiểu tâm chi chuý chuý.
Đãi vô khả ư nại hà, nãi nhập sơn nhi đào tỵ.
Môn la vạn lý, nhi tuyết nhiễm thiên hành; hồi thủ thất lăng, nhi huyết ban song lệ.
Chiêm thuý hoa hề dao dao, nghiễm lục long chi lệ chỉ.
Hấp chư hầu hề ảnh tòng, ống quần anh hề khuân chí.
Hùng bi chi sĩ, tam thiên nhi đồng tâm; tì hổ chi quân, bách vạn nhi lai tuỵ.
Chỉnh đại giá dĩ hồi kinh, tân hồ tương nhi nghinh quĩ.
Chỉ huy nhi yêu nghiệt nghinh hàng, đàm tiếu nhi hung đồ tống tử.
Tẩy lục hợp chi tinh chiên, đãng cung đình chi phân ế.
Huyền nhật nguyệt ư trung thiên, điện phi cơ ư vạn thế.

Nhiên hậu tri: Nghệ Hoàng vi tư trấn, an năng chí thành công chi nguy nguy;
Tư trấn vi Nghệ Hoàng, an năng xứng gia danh chi vĩ vĩ tai!

Ô hô! Y hi!
Vân Sạn oanh vu, Kiếm Các khung sùng, tuy túc dĩ thoát Minh Hoàng chi nạn, nhi Ngọc Luỹ yêm lưu, bất năng hồi Đường triệt nhi đông;
Hào Lũng hiểm trở, Lạc Dương thích trung, tuy túc dĩ chí Bình Vương chi hạnh, nhi ngũ thành tự tiểu, bất năng phản Kỳ Chu chi Phong.

Nhiên hậu tri: Nghệ Hoàng chi công, Thiên Hưng chi trấn, lịch vạn thế nhi mạc dữ chi thất mỹ nhi tỷ long dã.

Nãi bái thủ khể thủ nhi vi chi ca viết:
Tráng lai Thiên Hưng, vi Nam phương chi biểu cực hề.
Khải ngã hoàng đồ thuỳ thiên ức hề,
Ô duy Nghệ Hoàng, bất thị hiểm nhi thị đức hề.

Bản dịch của Trần Lê Sáng

Trắng phau thác nước, cao ngất đê rồng.
Non Tản chống gầm trời phía bắc, sông Đà reo tiếng ngọc xuôi đông.
Chốn trời đấ đặt bầy, ấy địa trục phương Nam mạnh thế; nơi Nghệ Hoàng nương náu, nghiệp trung hưng muôn thuở ghi công.

Kìa xem: Ai Lao tiện đường, Vân Nam chẹn lối.
Vây bọc trăm Mường, chặn ngang sáu Chiếu.
Chênh vênh, chót vót, xanh ngần non bọc muôn trùng; bát ngát, mênh mông, trắng xoá nước quanh một nẻo.
Che cho cắc trấn, như thế giậu phên; giữ vững thượng lưu, nắm phần ách yếu.

Thế rồi: Biền, nam, quát, bách, kỷ, tử, dự, chương.
Đậu, ngô rườm rà chất đống; dâu, gai bát ngát thành hàng.
Xương, ngà, lông, da tràn miền lân cận; vàng, bạc, châu, báu đầy chốn biên cương.
Thuyền bè dây chạc, đường lối chim muôn; quan ngang khách tạm, rộn rịp người sang.
Thật chỗ ấy là phủ ngoài nhà nước, nhưng là nơi muôn vật kho tàng.

Nhớ xưa: Xao xác cơ đồ, ngả nghiêng thành luỹ; nạn gặp bốn trăm, thời vừa nhuận quí.
Hoang dâm vô độ, Xương Vương làm suy nghiệp Hán gia; yêu quí rông càn, Võ Hậu cướp ngôi Đường thị.
Lờ mờ nhật nguyệt tối tăm, rùng rợn đất trời muốn huỷ.
Nghê Hoàng vì kiêng nể bà con, nên thường cứ băn khoăn lo nghĩ.
Kịp đến khi không biết làm sao, vùng núi mới lánh mình nơi ấy.
Ngoài muôn dặm tay vin cây cối, những bạc phơ ngàn sợi tuyết tơ; Hướng bảy lăng đầu ngoảnh lại nhìn, luống những rỏ đôi giòng huyết lệ.
Cờ thuý rung rinh trông thấy, xe ngựa tới nơi; vương hầu rộn rịp đi theo, anh tài họp đủ.
Chung ba ngàn quân lính hùng bi; họp trăm vạn tì hưu tướng sĩ.
Sửa xe rồng xa giá về kinh; bưng hồ rượu nhân dân dâng lễ.
Một vẩy tay mà yêu nghiệt qui hàng; chỉ cười nói mà hung đồ thất thế.
Rửa tanh hôi, non nước thanh bình; quét dơ bẩn, cung đình sạch sẽ.
Sáng ngời nhật nguyệt giữa trời, vững chãi nghiệp vua vạn thế.

Thế mới hay: không có trấn này thì Nghệ Hoàng sao thành được công nghiệp vẻ vang;
Không có Nghệ Hoàng thì trấn này sao xứng với tiếng tăm oai vệ.

Ô hô! Than ôi!
Đường Vân Sạn quanh co trăm dặm, cửa Kiếm Các chót vót ngàn trùng, dù đủ cho Minh Hoàng thoát nạn, mà nấn ná bên non Ngọc Luỹ, bánh xe Đường khôn dễ trở về đông;
Đất Hào Lũng là vùng hiểm trở, thành Lạc Dương là chốn thích trung, dù đủ cho Bình Vương lánh gót, mà năm thành xem ra nhỏ bé, nghiệp nhà Chu khó lấy lại Kỳ, Phong.

Vậy mới hay: Công lao Nghệ Hoàng, phiên trấn Thiên Hưng, kể bề tốt đẹp, trải muôn đời ai dễ sánh chung.

Bèn chắp tay cúi đầu mà ca rằng:
Hùng thay là trấn Thiên Hưng,
Một vùng án ngự Nam phương cõi bờ.
Ngàn năm dằng dặc dư đồ,
Nghệ Hoàng nhờ đức có nhờ hiểm đâu!
Trấn Thiên Hưng, trước đó gọi là trấn Đà Giang, sau Hồ Quý Ly đổi là trấn Thiên Hưng (1397). Vị trí của trấn này là tương đương với khu vực gồm phía tây tỉnh Hà Tây và phía đông tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay, tức vùng đất ở tả hữu sông Đà và một phần của Nhị Hà.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Bá Thông » Thiên Hưng trấn phú