28/03/2024 19:40Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thiết Đường giáp
鐵堂峽

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 05/02/2015 10:25

 

Nguyên tác

山風吹遊子,
縹緲乘險絕。
峽形藏堂隍,
壁色立積鐵。
徑摩穹蒼蟠,
石與厚地裂。
修纖無垠竹,
嵌空太始雪。
威遲哀壑底,
徒旅慘不悅。
水寒長冰橫,
我馬骨正折。
生涯抵弧矢,
盜賊殊未滅。
飄蓬逾三年,
回首肝肺熱。

Phiên âm

Sơn phong xuy du tử,
Phiêu diểu thừa hiểm tuyệt.
Giáp hình tàng đường hoàng,
Bích sắc lập tích thiết.
Kính ma thương khung phan,
Thạch dữ hậu địa liệt.
Tu tiêm vô ngân trúc,
Khảm không thái thuỷ tuyết.
Uy trì ai hác để,
Đồ lữ thảm bất duyệt.
Thuỷ hàn trường băng hoành,
Ngã mã cốt chính chiết.
Sinh nhai để hồ thỉ,
Đạo tặc thù vị diệt.
Phiêu bồng thâu tam niên,
Hồi thủ can phế nhiệt.

Dịch nghĩa

Gió núi thổi kẻ lang thang,
Choáng váng leo lên tới đỉnh cao nhất.
Hình thế của kẽm dấu kín nền điện,
Sắc của tường như chứa sắt.
Đường như chọc tới trời cao,
Đá nằm đầy nơi đất dày.
Trúc cằn mọc li ti,
Trên cao tuyết kinh niên còn đó.
Phờ phạc dưới đáy hang,
Cả bọn rầu không vui.
Nước lạnh băng dài chắn ngang,
Ngựa tôi như muốn gảy cả xương.
Cuộc sống vào lúc tên đạn này,
Giặc dã chưa dẹp xong.
Lênh đênh đã ba năm rồi,
Quay đầu lại nhìn mà gan ruột nóng bỏng.

Bản dịch của Phạm Doanh

Gió núi thổi khách đi,
Leo tới đỉnh cao nhất.
Hình kẽm ghi rõ nền,
Sắc tường lộ vẻ sắt.
Đường như chọc thủng trời,
Đá nằm bừa đầy đất.
Trúc cằn, khóm li ti,
Tuyết cũ, đống cao ngất.
Phờ phạc dưới đáy hang,
Cả lũ buồn da diết.
Nước lạnh băng đóng ngang,
Chân ngựa hết muốn lết.
Cuộc sống giữa đạn tên,
Bọn giặc chưa dẹp hết.
Lênh đênh đã ba năm,
Quay nhìn ruột như đốt.
(Năm 759)

Lời dẫn: "Thiết Đường sơn tại Thiên Thuỷ huyện đông ngũ lý, giáp hữu Thiết Đường trang" 鐵堂山在天水縣東五裏,峽有鐵堂莊 (Núi Thiết Đường ở phía đông huyện Thiên Thuỷ, cách năm dặm, kẽm có trại Thiết Đường).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Thiết Đường giáp