20/04/2024 00:41Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/04/2015 16:58
Nguyên tác
並照巫山出,
新窺楚水清。
羈棲愁裏見,
二十四回明。
必驗升沉體,
如知進退情。
不違銀漢落,
亦伴玉繩橫。
Phiên âm
Tịnh chiếu Vu Sơn xuất,
Tân khuy Sở thuỷ thanh.
Ky thê sầu lý kiến,
Nhị thập tứ hồi minh.
Tất nghiệm thăng trầm thể,
Như tri tiến thoái tình.
Bất vi Ngân Hán lạc,
Diệc bạn Ngọc Thằng hoành.Dịch nghĩa
Chiếu rọi núi Vu cao sừng sững,
Lại mới nhòm vào sông Sở trong.
Trong cảnh sống nhờ, thấy mà rầu,
Hai mươi bốn lần sáng rồi.
Hẳn là nhận ra cái bản chất trồi sụt,
Như biết được cái tình hình tiến lui.
Không bị sa vào dòng sông Ngân,
Mà còn đứng ngang với sao Ngọc Thằng.Bản dịch của Phạm Doanh
Núi Vu vẫn thường soi,
Sông Sở vừa mới hé.
Sống gửi giữa cảnh buồn,
Hai mươi bốn hồi loé.
Lên, xuống nhận ra điều,
Tiến, lùi biết được lẽ.
Không vì Ngân Hán rơi,
Với Ngọc Thằng cùng ké.
(Năm 767)