20/04/2024 07:31Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tặng Lý thập ngũ trượng biệt
贈李十五丈別

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/02/2015 10:57

 

Nguyên tác

峽人鳥獸居,
其室附層顛。
下臨不測江,
中有萬里船。
多病紛倚薄,
少留改歲年。
絕域誰慰懷,
開顏喜名賢。
孤陋忝末戚,
等級敢比肩。
人生意氣合,
相與襟袂連。
一日遣兩僕,
三日共一筵。
揚論展寸心,
壯筆過飛泉。
玄成美價存,
子山舊業傳。
不聞八尺軀,
常受眾目憐。
且為辛苦行,
蓋被生事牽。
北回白帝棹,
南入黔陽天。
汧公制方隅,
迥出諸侯先。
封內如太古,
時危獨蕭然。
清高金掌露,
正直朱絲弦。
昔在堯四嶽,
今之黃潁川。
於邁恨不同,
所思無由宣。
山深水增波,
解榻秋露懸。
客遊雖雲久,
主要月再圓。
晨集風渚亭,
醉操雲嶠篇。
丈夫貴知己,
歡罷念歸旋。

Phiên âm

Giáp nhân điểu thú cư,
Kì thất phụ tằng điên.
Hạ lâm bất trắc giang,
Trung hữu vạn lí thuyền.
Đa bệnh phân kì bạc,
Thiếu lưu cải tuế niên.
Tuyệt vực thuỳ uỷ hoài,
Khai nhan hỉ danh hiền.
Cô lậu thiêm mạt thích,
Đẳng cấp cảm tỉ kiên.
Nhân sinh ý khí hợp,
Tương dữ khâm duệ liên.
Nhất nhật khiển lưỡng bộc,
Tam nhật cung nhất diên.
Dương luận triển thốn tâm,
Tráng bút quá phi tuyền.
Huyền Thành[1] mĩ giá tồn,
Tử Sơn[2] cựu nghiệp truyền.
Bất văn bát xích khu,
Thường thụ chúng mục liên.
Thả vi tân khổ hành,
Cái bị sinh sự khiên.
Bắc hồi Bạch Đế trạo,
Nam nhập Kiềm Dương thiên.
Khiên công chế phương ngẫu,
Quýnh xuất chư hầu tiên.
Phong nội như thái cổ,
Thì nguy độc tiêu nhiên.
Thanh cao kim chưởng[3] lộ,
Chính trực chu ti huyền.
Tích tại Nghiêu tứ nhạc,
Kim chi Hoàng Dĩnh Xuyên[4].
Ư mại hận bất đồng,
Sở tư vô do tuyên.
Sơn thâm thuỷ tằng ba,
Giải tháp thu lộ huyền[5].
Khách du tuy vân cửu,
Chủ yếu nguyệt tái viên.
Thần tập phong chử đình,
Tuý thao vân kiêu thiên[6].
Trượng phu quý tri kỷ,
Hoan bãi niệm quy triền.

Dịch nghĩa

Người dân trong kẽm sống như chim, thú,
Nhà ở của họ dựa vào đỉnh cao.
Ở dưới sát với sông luôn luôn biến động,
Giữa có cả vạn cái thuyền.
Lắm bệnh cứ liên tiếp loạn cả lên,
Nán lại trong quãng thời gian ngắn như biến đổi năm tháng.
Ở vào cái cảnh vô vọng như thế, ai mà yên lòng cho được,
Mặt tươi mừng được gặp người tài danh.
Đã quê mùa thêm tuy có họ nhưng xa,
Về đẳng cấp trong xã hội đâu có dám sánh ngang vai.
Trong đời sống, nếu mà hợp ý nhau,
Tất nhiên vạt áo sẽ cột lại với nhau.
Một ngày sai hai đày tớ,
Ba ngày mở một tiệc.
Nói hăng thoả tấc lòng,
Bút vung tựa thác đổ.
Huyền Thành giữ lại được cái giá trị đẹp,
Tử Sơn truyền lại được cái nghiệp cũ.
Không nghe đến tấm thân tám thước,
Mà chỉ nhận được cái con mắt nhìn thương hại.
Hay vì trải qua gian khổ,
Mà bị cảnh ngộ dồn ép.
Đi về phía bắc, mái chèo qua thành Bạch Đế,
Theo hướng nam qua vùng trời Kiềm Dương.
Ngài Khiên quốc công Bùi Miễn đã cai quản khu này,
Là một địa phương nổi bật nhất.
Trong cái vùng tự trị này y hệt thời xa xưa,
Trong lúc nguy nan mà chì có vùng này yên tĩnh.
Trong sạch như sương đọng nơi cánh tay vàng,
Ngay thẳng như dây đàn màu đỏ.
Trước kia trong vùng bốn ngọn núi của vua Nghiêu,
Nay lại về Dĩnh Xuyên của ông Hoàng.
Giận không cùng được đi xa hơn,
Cái điều suy nghĩ không thể nói rõ ra được.
Núi sâu, sông có nhiều lớp sóng,
Hạ cái giường treo trong sương thu.
Khách ra đi chỉ thấy mây mãi mãi,
Chủ ở lại cầu cho trăng lại tròn.
Sáng tụ tập tại đình Bến Gió,
Say thảo khúc Đỉnh Mây.
Thân trai quí trọng người hiểu mình,
Cuộc vui chấm dứt còn nhớ hẹn quay lui.

Bản dịch của Phạm Doanh

Người trong kẽm sống như chim, thú,
Phòng ở ngay vào chỗ cao vời.
Dưới sát dòng nước ngược xuôi,
Giữa sông vạn dặm thuyền nơi xa về.
Thân lắm bệnh nhiều bề kế tiếp,
Tháng cùng năm chẳng kịp nghỉ ngơi.
Cùng đường biết ngỏ cùng ai,
Mừng thay gặp được người tài vang tên.
Đã họ xa lại thêm quê kệch,
Thứ bậc nào dám nhích kề vai.
Ý khí nếu hợp trong đời,
Ắt là vạt áo chẳng rời xa nhau.
Một ngày phái người hầu hai lượt,
Cứ ba hôm lại thết một chầu.
Bàn hăng lòng những dạt dào,
Bút vung hơn cả rào rào thác rơi.
Huyền Thành vẫn thường noi cái đẹp,
Tử Sơn, về cựu nghiệp còn truyền.
Thân tám thước ai hỏi han,
Thường thì chỉ nhận cái nhìn ngùi thương.
Há vì trải tai ương khốn quẫn,
Nên cảnh đời dồn lấn thế sao.
Hướng bắc Bạch Đế vung chèo,
Xuôi nam, trời Kiềm Dương vào ngay bên.
Khiên công trước nắm quyền xếp đặt,
So xung quanh, nổi bật một khu.
Cương giới như thuở ban sơ,
Một mình yên vững, giữa giờ lắt lay.
Thanh cao: móc nơi tay vàng giỏ,
Ngay thẳng: dây đàn đỏ rung kêu.
Xưa nơi bốn núi của Nghiêu,
Nay như Hoàng Bá tiến vào Dĩnh Xuyên.
Tiếc chẳng cùng đi thêm vài độ,
Ý trong lòng chưa tỏ hết đâu.
Sông lắm sóng vì núi sâu,
Giường treo hãy hạ, sương thu toả dầy.
Khách di, tuy với mây mãi mãi,
Chủ chỉ mong trăng lại tròn trăng.
Sớm đình bến gió cùng dừng,
Thơ tiên say thảo vài chương thoả tình.
Trượng phu quí kẻ hiểu mình,
Vui này vừa dứt, đã dành hẹn sau.
(Năm 766)

Lời tự: "Lý bí thư Văn Nghi" 李秘書文嶷 (Ông Lý Văn Nghi, giữ chức bí thư).

[1] Vi Hiền 韋賢 (148 tr.CN - 60 tr.CN) tự Trường Nhụ 長孺, là một vị đại thần thời Tây Hán. Ông có bốn con đều làm nên, Vi Huyền Thành 韋玄成 là con út, có tài văn học, làm tới thừa tướng, giống cha. Người đời sau dùng hoàn cảnh này mô tả việc con nối chí cha.
[2] Dữu Tín 庾信 (513-581) tên hồi nhỏ là Lan Thành 蘭成, tự Tử Sơn, người Tân Dã nước Lương thời Nam triều. Khi Lương Nguyên Đế tức vị có phong ông làm Tả vệ tướng quân, đi sứ lập được nhiều công lao, cùng tột là chức khai phủ. Văn ông diễm lệ, sánh vai cùng Từ Lăng 徐陵, nên có chữ Từ Dữu thể 徐庾體 chỉ phong cách của Từ Lăng, Dữu Tín.
[3] Được vua cất nhắc.
[4] Hoàng Bá 黄霸 người đời Hậu Hán, là thái thú Dĩnh Xuyên, nhờ có thành tích tốt, được trưng dụng làm đô trưởng.
[5] Thời Đông Hán, Trần Phồn 陳蕃 làm thái thú Dự Chương không hề tiếp khách ngoài Từ Trĩ 徐稺 là bậc cao sĩ ở Nam Châu, có dành riêng một cái giường cho ông này. Sau dùng chữ "giải tháp" chỉ lòng ân cần tiếp đãi bè bạn.
[6] Chữ lấy từ một trong hai bài thơ "Du tiên" 遊仙 của Vương Dung 王融 (467-493), người nước Tề thời Nam triều, có câu: “Kết thưởng tự vân kiêu, Di yến nãi phương hồ" 結賞自雲嶠 ,移讌乃方壺. Sau này dùng "vân kiêu thiên" để chỉ bài thơ du tiên.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tặng Lý thập ngũ trượng biệt