29/03/2024 07:35Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ức tích sơn cư
憶昔山居

Tác giả: Chiêm Đồng - 詹同

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nguyên
Đăng bởi tôn tiền tử vào 05/12/2018 10:08

 

Nguyên tác

山居素幽僻,
殊覺禮疏緩。
慎交非寡合,
恐為世俗亂。
客從城中來,
相見日已宴。
云將適遠方,
塵土滿衣汗。
豹虎難宵征,
愿投一宿爨。
豈不含苦辛,
我亦曾客慣。
呼儿出拜拙,
偶發客笑粲。
老妻自中饋,
病仆行走慢。
擿疏僅盈筐,
汲井綆忽斷。
荐以小竹案,
具以晚粟飯。
家貧客勿怪,
歲歉費難辦。
席地臥稿秸,
燈火語夜半。
雞鳴起櫛沐,
殘星尚明爛。
客辭出門去,
風露亦不憚。
我乃惓夙興,
隔屋答呼喚。
伊然在衾枕,
春雷晌鼻觀。
一入城巿間,
白髮落羈宦。
車馬候晨鍾,
冠服待明旦。
窮達固各异,
憂樂不可換。
焉能夏山居,
不為行路嘆。

Phiên âm

Sơn cư tố u tịch,
Thù giác lễ sơ hoãn.
Thận giao phi quả hợp,
Khủng vị thế tục loạn.[1]
Khách tòng thành trung lai,
Tương kiến nhật dĩ yến.
Vân tương thích viễn phương,
Trần thổ mãn y hãn.
Báo hổ nan tiêu chinh,
Nguyện đầu nhất túc thoãn.
Khởi bất hàm khổ tân?
Ngã diệc tằng khách quán.
Hô nhi xuất bái chuyết,
Ngẫu phát khách tiếu xán[2].
Lão thê tự trung quỹ[3],
Bệnh phác hành tẩu mạn.
Trích sơ cận doanh khuông,
Cấp tỉnh canh hốt đoạn.
Tiến dĩ tiểu trúc án,
Cụ dĩ vãn túc phạn.
Gia bần khách vật quái,
Tuế khiểm phí nan biện.
Tịch địa ngoạ cảo giai,
Đăng hoả ngữ dạ bán.
Kê minh khởi tiết mộc,
Tàn tinh thượng minh lạn.
Khách từ xuất môn khứ,
Phong lộ diệc bất đạn.
Ngã nãi quyện túc hưng,
Cách ốc đáp hô hoán.
Y nhiên tại khâm chẩm,
Xuân lôi hưởng tỵ quán.
Nhất nhập thành thị gian,
Bạch phát lạc ky hoạn.
Xa mã hậu thần chung,
Quan phục đãi minh đán.
Cùng đạt cố các dị,
Ưu lạc bất khả hoán.
Yên năng phục sơn cư,
Bất vi hành lộ thán!

Dịch nghĩa

Ở núi thường vắng vẻ
Khác nhất là lễ phép sơ sài
Cẩn thận trong giao tiếp không phải là hợp nhau ít
Sợ bị thói đời làm nhiễu
Khách từ trong thành đến
Gặp nhau trời đã chiều
Khách nói là còn đi xa nữa
Áo bết bụi mồ hôi
Đi đêm sợ hổ báo
Ngủ nhờ một tối thôi
Đi như thế vất vả lắm
Ta đã từng làm khách đi đường nhiều
Gọi con ra chào vụng về
Để khách phải bật cười
Vợ già từ trong bếp bước ra
Người ốm nên bước đi chậm chạp
Hái đầy được rổ rau
Múc giếng bị đứt dây gầu
Dọn cơm bằng cái bàn tre
Mời khách ăn cơm độn ngô
Nhà nghèo khách không trách
Gặp năm mất mùa không có tiền mua thức ăn
Rải ổ rơm xuống đất
Thắp đèn nói chuyện đến nửa đêm
Gà gáy khách dậy sửa soạn
Sao thưa còn sáng trên bầu trời
Khách từ biệt đi ra ngoài cửa
Gió sương cũng chẳng ngại
Ta quen ngại dậy sớm
Đáp lời khách qua nhà
Vẫn nằm nguyên trong chăn
Tiếng ngáy vang như sấm
Từ khi vào thành thị
Đầu bạc vương vào đận quan trường
Ngựa xe trực chuông sớm
Áo mũ đợi trời rạng
Làm nên hay không nên đều khác nhau
Vui lo không thể đổi
Bao giờ lại được về ở núi
Không phàn nàn gì vì phải đi đường.

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Ở núi thường vắng vẻ
Khác lễ phép sơ sài
Thận không phải ít hợp
Sợ bị lây thói đời
Khách từ trong thành đến
Gặp nhau gần tối trời
Nói còn đi xa nữa
Áo bết bụi mồ hôi
Đi đêm sợ hổ báo
Ngủ nhờ một đêm thôi
Biết khách rất vất vả
Thân khách ta quen rồi
Gọi con ra chào vụng
Để khách phải bật cười
Vợ già từ trong bếp
Yếu bước nghiêng nghiêng người
Rau hái vừa đầy rổ
Múc giếng đứt dây rồi
Trên bàn tre dùng bữa
Có cơm độn ngô thôi
Nhà nghèo khách không trách
Mất mùa khó thết mời
Rải ổ rơm dưới đất
Chuyện trò nửa đêm trôi
Gà gáy dậy sửa soạn
Sao thưa còn sáng trời
Khách từ biệt ra cửa
Chẳng ngại gió sương rơi
Ta vì ngại dậy sớm
Cách nhà nói qua lời
Vẫn nằm trong chăn ấm
Tiếng ngáy vang liên hồi
Khi đã vào thành thị
Tóc bạc phận bề tôi
Ngựa xe trực chuông sớm
Áo mũ chờ đông ngời
Khác nhau về cùng đạt
Vui lo cũng khác vời
Sao lại được về núi
Không phải than đường dài.
[1] Ý nói ẩn cư trong núi, không muốn quan hệ với nhiều người, sợ bị thói đời làm mê loạn mất bản tính của mình.
[2] Cười rất tự nhiên làm hở răng.
[3] Xưa chỉ phụ nữ chủ trì việc ăn uống trong nhà.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Chiêm Đồng » Ức tích sơn cư