29/03/2024 17:49Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Bắc Tống, Liêu
Đăng bởi hongha83 vào 28/10/2008 09:47
Nguyên tác
北山輸綠漲橫陂,
直塹回塘灩灩時。
細數落花因坐久,
緩尋芳草得歸遲。
Phiên âm
Bắc Sơn thâu lục trướng hoành pha,
Trực tiệm hồi đường diễm diễm thì.
Tế sổ lạc hoa nhân toạ cửu,
Hoãn tầm phương thảo đắc quy trì.Dịch nghĩa
Bắc sơn trút nước mầu biếc ngập gò ngang
Hào thẳng ao cong lấp loáng
Vì ngồi lâu nên khẽ đếm hoa rơi
Thong thả tìm cỏ thơm nên về chậmBản dịch của Ngô Văn Phú
Bắc Sơn tuôn chảy mạch đầm dâng
Khe lạch quanh co nước chảy tràn
Hoa rụng nhiều nơi ngồi nán mãi
Mải lùng cỏ lạ chậm về làng
Bài bày tuyển từ Lâm Xuyên Vương tiên sinh Kinh công văn tập quyển 77, bản Gia tĩnh nhà Minh. Thơ có đề khác là Tường vi. Bắc Sơn tức Chung Sơn. Cuối đời nhà thơ lui về ở Kim Lăng, gửi lòng vào sông núi chim hoa, thơ mô tả nội tâm vui trong cảnh nhàn của tác giả. Hai câu sau của bài thơ nổi tiếng, vốn từ Vương Duy “Hứng lan đề điểu hoãn, Toạ cửu lạc hoa đa” (Hứng đến chim hót chậm, Ngồi lâu hoa rụng nhiều), song ý của tác giả sâu sắc hơn. Thơ Vương Duy tả cảnh vô ngã, nhưng bài thơ này tả cảnh hữu ngã, nét chủ quan thâm nhập rõ ràng, đây đúng là cái người Tống nói “Thoát thai hoán cốt”.