19/04/2024 15:18Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi
保寧崇福寺碑

Tác giả: Lý Thừa Ân - 李承恩

Thể thơ: Tản văn; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Lý
Đăng bởi Vanachi vào 01/06/2020 22:05

 

Nguyên tác

知渭龍州,駙冀郎,都知左武衛大將軍,金紫光祿大夫,檢校太傅,同中書門下平章事,兼管內勸農事,上柱國,食邑三千九百戶,食實封九百。

夫湛寂真空,蘊清濁未分之上;發揮妙有,包形器運動之先。亮舍空而兆朕非空;妄執有而希夷莫有。緬維皇覺,智能究盡;靡有孑遺。隱實顯權,示永遠常落之道;從無入有,資回向解脫之基。善開萬萬法門;化誘千千沙界。泛竺乾源派;距周穆濫觴。經始仁祠;恢崇象教。先民勗爾,新新不停;後世傳焉,生生相續。有緣兮芥墜投針;不悟者,水漂扑石。

於穆太傅何公興宗,厥祖元屬邕州,東都,何縣,石柏香,歌農里。高祖何得重,遙聞聖化,踵願為臣。守成渭龍州也。民 既富矣;世稱長焉。累適八代,爰及祖先,太相二代,奕葉彌昌,茂勛永著。管四十九峒,壹十五縣。純被美化;咸歸一揆。經五代遂之此,父考太保,娶于太祖皇帝第三公主仲女,配為郡君。因授右大僚班。生此嚴考等,賢男四,貴女三。惟嚴考太傅,仁政施發,閭里樂康。娶妣親于富義州太守,李氏第六娘子,立為郡君。始生孟子,洎第四男興宗考妣。乃載鞠載育;弄瓦弄璋。男訓女功;月將日就。嚴考以太寧乙卯,爰整王師;載侵朔塞。圍邕城而赫怒;拔武將而獻俘。賞賜遷右大僚班團練使。耕歛九一,稷麥如坻;賓客三千,門庭若市。

于英武昭勝丁巳,時維九歲,紫泥封詔,戾止彤庭仙籍中掄,好逑帝妹。于時尚幼,告歸養蒙。至戊午孟春,纔登十歲。伏幸皇帝再令內輔文思郎中矯義,密銜綸旨;將赴仁封。迎少幼於遐荒;對天顏之尺 咫。以配嶔聖公主,獎飾為左大僚班。于戲!秉斯雅節;允執禮容。奉圭壁以峨峨;賁黼鼥而棣棣。以壬戌季冬,帝乃宧餞公主,下嫁本州。肆亨嘉之筵;備親迎之禮。九十其儀,瞻望與人成堵;六五之位,緝御姊侄如雲。室家之道未完;唱和之情未几。忽屆廣佑乙丑,考妣俱亡;王姬喪絰。

迨于丙寅歲,皇帝詔宣賜命,俾嗣考符,仍舊爵以左大僚班,兼知渭龍州,守節度使,金紫光祿大夫,檢校太傅。圓議布燮,始自曾祖,終于代換,垂裕興宗,一十五代。時哉!道建國若砥;俗飲化如流。或王事無成,再三忖己;乃考古風有翼,守一存心,辨囿詞林,遍搜入詠;禮門義路,盡萃來遊。信主友而切切偲偲;孝奉先而兢兢戰戰。

噫!守榮中為寶,懼落極則悲;懷衣裏之珠,恐既得而失。擬聯純嘏;屑慕勝因。以龍符元化丁亥暮春,率此鄉老;相彼郡隅。定漢麓之南;帶畝宮之朔。會將斤斧,剪伐雲林;方命工師,經始紺宇。削梓材而橐橐;召虆里以登登。梁偃分形,誤虹雙跨;檐阿翼勢,如鳥四飛。延粉署周回,不隔三摩地;列金容敷坐,奚殊五淨天。沉檀飄而高剿雲霓;鐘磬諧而遠沖峒壑。松花郁茂,長佔慈風;旄倪皈依,俱拋火宅。預祝為今上,御寶圖而有永;握玄鑒而無疆。居雖奉土之臣;終望就日之志。次願郡君,道娘洎男女,致鵲有巢之道,金石齊齡;眷羊跪乳之恩,松樁比壽。末薦為九玄七祖,咸承妙果之功;先考後昆,並沐良緣之跡。

欲顯時代;可紀貞珉。命愚矩引;輒敘于左。

辭曰:

定體非空,
入用非有。
空有勿離,
果因難朽。
中道不安,
二邊奚取。
隱實顯權,
何可孰否?
曰皇至覺,
導化群生。
無罣無礙,
有緣有情。
偉哉何氏,
昭乎令名,
先祖攸往,
後昆再賡。
四十九峒,
一十五代。
周保山川,
撫綏仁愛。
真性匪迷,
善根何懷。
締構青鴛,
粧成金界。
畝宮之朔,
旱麓之南。
地清塵坌,
境郁濃嵐。
賢應五百,
道罔二三。
公名己石,
永著巖巖。

Phiên âm

Tri Vị Long châu, phụ ký lang, đô tri tả vũ vệ đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái phó, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, kiêm quản nội khuyến nông sự, thượng trụ quốc, thực ấp tam thiên cửu bách hộ, thực thực phong cửu bách.

Phù trạm tịch chân không, uẩn thanh trọc vị phân chi thượng; phát huy diệu hữu, bao hình khí vận động chi tiên. Lượng xả không nhi triệu trẫm phi không; vọng chấp hữu nhi hy di mạc hữu. Miến duy Hoàng Giác, trí năng cứu tận; mị hữu kiết di. Ẩn thực hiển quyền, thị vĩnh viễn thường lạc chi đạo; tòng vô nhập hữu, tư hồi hướng giải thoát chi cơ. Thiện khai vạn vạn pháp môn; hoá dụ thiên thiên sa giới. Phiếm Trúc càn nguyên phái; cự Chu Mục lạm trường. Kinh thuỷ nhân từ; khôi sùng tượng giáo. Tiên dân húc nhĩ, tân tân bất đình; hậu thế truyền yên, sinh sinh tương tục. Hữu duyên hề giới truỵ đầu châm; bất ngộ giả, thuỷ phiêu phác thạch.

Ô mục Thái phó Hà công Hưng Tông, quyết tổ nguyên thuộc Ung Châu, Đông Đô, Hà huyện, Thạch Bách hương, Ca Nông lý. Cao Tổ Hà Đắc Trọng, dao văn thánh hoá, thũng nguyện vi thần. Thủ thành Vị Long châu dã. Dân ký phú hỹ; thế xưng trường yên. Luỹ thích bát đại, viên cập tổ tiên, thái tướng nhị đại, dịch diệp di xương, mậu huân vĩnh trước. Quản tứ thập cửu động, nhất thập ngũ huyện. Thuần bị mỹ hoá; hàm qui nhất quĩ. Kinh ngũ đại toại chi thử, phụ khảo Thái bảo, thú vu Thái Tổ hoàng đế đệ tam công chúa trọng nữ, phối vi quận quân. Nhân thụ Hữu đại liêu ban. Sinh thử nghiêm khảo đẳng, hiền nam tứ, quí nữ tam. Duy nghiêm khảo Thái phó, nhân chính thi phát, lư lý lạc khang. Thú tỷ thân vu Phú Nghĩa châu Thái thú, Lý thị đệ lục nương tử, lập vi quận quân. Thuỷ sinh mạnh tử, kỵ đệ tứ nam Hưng Tông khảo tỷ. Nãi tái cúc tái dục; lộng ngoã lộng chương. Nam huấn nữ công; nguyệt tương nhật tựu. Nghiêm khảo dĩ Thái Ninh Ất mão, viên chỉnh vương sư; tái xâm sóc tái. Vi Ung thành nhi hách nộ; bạt vũ tướng nhi hiến phù. Thưởng tứ thiên Hữu đại liêu ban đoàn luyện sứ. Canh liễm cửu nhất, tắc mạch như để; tân khách tam thiên, môn đình nhược thị.

Vu Anh Vũ Chiêu Thắng Đinh Tị, thời duy cửu tuế, tử nê phong chiếu, lệ chỉ đan đình tiên tịch trung luân, hảo cầu đế muội. Vu thời thượng ấu, cáo qui dưỡng mông. Chí Mậu Ngọ mạnh xuân, tài đăng thập tuế. Phục hạnh hoàng đế tái linh nội phụ văn tư lang trung Kiểu Nghĩa, mật hàm luân chỉ; tương phó nhân phong. Nghinh thiếu ấu ư hà hoang; đối thiên nhan chi xích chỉ. Dĩ phối Khâm Thánh công chúa, tưởng sức vi Tả đại liêu ban. Ô hy! Bỉnh tư nhã tiết; doãn chấp lễ dung. Phụng khuê bích dĩ nga nga; bôn phủ bạt nhi lệ lệ. Dĩ Nhâm Tuất quí đông, đế nãi di tiễn công chúa, hạ giá bản châu. Tứ hanh gia chi diên; bị thân nghinh chi lễ. Cửu thập kỳ nghi, chiêm vọng dữ nhân thành đổ; lục ngũ chi vị, tập ngự tỷ điệt như vân. Thất gia chi đạo vị hoàn; xướng hoạ chi tình vị kỷ. Hốt giới Quảng Hựu Ất Sửu, khảo tỷ câu vong; vương cơ tang điệt.

Đãi vu Bính Dần tuế, hoàng đế chiếu tuyên tứ mệnh, tỷ tự khảo phù, nhưng cựu tước dĩ Tả đại liêu ban, kiêm tri Vị Long châu, thủ tiết độ sứ, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái phó. Viên nghị bố tiếp, thuỷ tự tằng tổ, chung vu đại hoán, thuỳ dụ Hưng Tông, nhất thập ngũ đại. Thời tai! Đạo kiến quốc nhược chỉ; tục ẩm hoá như lưu. Hoặc vương sự vô thành, tái tam thổn kỷ; nãi khảo cổ phong hữu dực, thủ nhất tồn tâm, Biện hựu từ lâm, biến sưu nhập vịnh; lễ môn nghĩa lộ, tận tuỵ lai du. Tín chủ hữu nhi thiết thiết tư tư; hiếu phụng tiên nhi căng căng chiến chiến.

Y! Thủ vinh trung vi bảo, cụ lạc cực tắc bi; hoài y lý chi châu, khủng ký đắc nhi thất. Nghĩ liên thuần hỗ; tiết mộ thắng nhân. Dĩ Long Phù Nguyên Hoá Đinh Hợi mộ xuân, suất thử hương lão; tướng bỉ quận ngung. Định Hán Lộc chi nam; đới mẫu cung chi sóc. Hội tương cân phủ, tiễn phạt vân lâm; phương mệnh công sư, kinh thuỷ cám vũ. Tước tử tài nhi thác thác; triệu luy lý dĩ đăng đăng. Lương yển phân hình, ngộ hồng song khoá; thiềm a dực thế, như điểu tứ phi. Diên phấn thự chu hồi, bất cách tam ma địa; liệt kim dung phu toạ, hề thù Ngũ tịnh thiên. Trầm đàn phiêu nhi cao tiễu vân nghê; chung khánh hài nhi viễn xung động hác. Tùng hoa uất mậu, trường chiếm từ phong; mao nghễ quy y, câu phao hoả trạch. Dự chúc vị kim thượng, ngự bảo đồ nhi hữu vĩnh; ác huyền giám nhi vô cương. Cư tuy phụng thổ chi thần; chung vọng tựu nhật chi chí. Thứ nguyện quận quân, đạo nương kỵ nam nữ, trí thước hữu sào chi đạo, kim thạch tề linh; quyến dương quỵ nhũ chi ân, tùng thung tỷ thọ. Mạt tiến vị cửu huyền thất tổ, hàm thừa diệu quả chi công; tiên khảo hậu côn, tịnh mộc lương duyên chi tích.

Dục hiển thời đại; khả kỷ trinh mân. Mệnh ngu củ dẫn; triếp tự vu tả.

Từ viết:

Định thể phi không,
Nhập dụng phi hữu.
Không, hữu vật ly,
Quả, nhân nan hủ.
Trung đạo bất an,
Nhị biên hề thủ.
Ẩn thực hiển quyền,
Hà khả thục phủ?
Viết hoàng chí giác,
Đạo hoá quần sinh.
Vô khuể vô ngại,
Hữu duyên hữu tình.
Vĩ tai Hà thị,
Chiêu hồ lệnh danh,
Tiên tổ du vãng,
Hậu côn tái canh.
Tứ thập cửu động,
Nhất thập ngũ đại.
Chu bảo sơn xuyên,
Phủ tuy nhân ái.
Chân tính phỉ mê,
Thiện căn hà hoại.
Đế cấu thanh uyên,
Trang thành kim giới.
Mẫu Cung chi sóc,
Hãn Lộc chi nam.
Địa thanh trần phân,
Cảnh uất nùng lam.
Hiền ứng ngũ bách,
Đạo võng nhị tam.
Công danh kỷ thạch,
Vĩnh trước nham nham.

Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ

[Hà Hưng Tông giữ chức] tri Vị Long châu, phò ký lang, đô tri tả vũ vệ đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái phó, đồng trung thư, môn hạ bình chương sự, kiêm quản nội khuyến nông sự, thượng trụ quốc, thực ấp ba nghìn chín trăm hộ, thực thực phong chín trăm hộ.

Ôi! Cái chân không trong lặng, giấu hình khi trời đất chưa chia; cái diệu hữu nẩy sinh, bao trùm trước hữu hình vận động. Sáng thì gạt bỏ cái “không”, Vì cơ vi chẳng phải là không; mê thì bám lấy cái “có”, coi mầu nhiệm cũng là không có. Xa nghĩ đức Phật tổ xưa, trí tuệ của người xem xét tất cả không sót một ai. Cho nên người: giấu kín cái “thực”, làm rõ cái “quyền”, để gọi bảo cái đạo “thường”, “vui” mãi mãi; từ cái “không” đi vào cái “có”, để giúp cho sự hồi hướng giải thoát đời đời. Khéo mở ra muôn vạn pháp môn; để dạy bảo muôn nghìn thế giới. Lênh đênh dòng nước trời Tây; vời vợi suối nguồn Chu Mục. Bắt đầu xây dựng chùa này; hết dạ tôn sùng tượng giáo. Người xưa khuyên bảo, đổi mới không ngừng; hậu thế lưu truyền, đời đời nối dõi. Kẻ có duyên thì cải ném đầu kim; người không hiểu thì nước trôi xô đá.

Kính thay Thái phó Hà Hưng Tông, thuỷ tổ là người ở xóm Ca Nông, hương Thạch Bách, huyện Hà, thuộc Đông Đô, châu Ung Cao tổ là Hà Đắc Trọng, xa nghe giáo hoá của vương triều, dời gót xin làm thần thứ. Từ đó gìn giữ an toàn châu Vị Long vậy. Dân đã ấm no; người đời tôn trưởng. Cho tới đời thứ tám, kể cả tổ tiên xưa có hai đời làm Thái bảo và Thái phó, nghiệp lớn càng thịnh, công cả càng cao. Được coi giữ bốn mươi chín động, mười lăm huyện, dân chúng đều thấm nhuần giáo hoá tốt đẹp, đều hướng về một khuôn phép chung. Trải qua năm đời thì đến đời bấy giờ. Ông của Thái phó giữ chức Thái bảo, lấy công chúa thứ ba của Thái Tổ hoàng đế làm phu nhân. Nhân việc đó lại được Thái Tổ trao cho chức Hữu đại liêu ban. Phu nhân sinh ra hàng cha chú của Thái phó; tất cả có bốn trai tài, ba gái đảm. Riêng thân phụ Thái phó là người thi hành nhân chính; làng xóm yên vui. Thân phụ của Thái phó lấy con gái thứ sáu của quan Thái thú họ Lý ở Phú Nghĩa làm phu nhân. Từ khi sinh con trai đầu lòng cho đến người con trai thứ tư, cha mẹ Thái phó đều nuôi dạy ân cần; cho chơi đùa hợp cách con trai thì dùi mài kinh sử; con gái thì kim chỉ thêu thùa. Ngày qua tháng lại, năm Ất mão niên hiện Thái Ninh [1074], thân phụ Thái phó chỉnh đốn vương sư, đánh sang ải Bắc. Vây thành Ung cho bõ giận; bắt tướng võ dâng tù binh. Do đó, phụ thân Thái phó được nhà vua ban chức Hữu đại liêu bàn đoàn luyện sứ. Cấy cày theo phép tỉnh điền, thóc lúa ùn ùn như núi; khách khứa ba nghìn đông đúc, cửa nhà nhộn nhịp phố phường.

Năm Đinh Tị niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng [1077], bấy giờ Thái phó mới lên chín tuổi, chiếu gắn hồ son vời về sân đỏ; sổ tiên lựa chọn, kết bạn em vua. Nhưng vì Thái phó còn nhỏ, nên xin được về nấp bóng mẹ cha. Đến tháng Giêng năm Mậu Ngọ [1078], Thái phó mới lên mười tuổi. Nhà vua lại sai quan Nội phụ văn tư lang trung là Kiểu Nghĩa, ngầm mang thánh chỉ, thẳng tới ấp phong, đón trẻ thơ ở nơi xa vắng, cho gang tấc gần gũi mặt rồng, để kết duyên với công chúa Khâm Thánh và phong làm Tả đại liêu ban. Than ôi! Giữ lễ tiết trang nhã; sửa dung mạo đoan trang. Nâng khuê bích nguy nga; vận lễ phục rực rỡ.

Cuối đông năm Nhâm Tuất [1082], vua tiễn đưa công chúa về nhà chồng ở bản châu. Nhà vua ban tiệc mừng long trọng; Thái phó sắm đủ lễ đón dâu. Ăn mặc đủ màu, dân chúng xem đông như hội; năm cung sáu viện, chị em đưa tiễn rợp đường. Đạo thất gia chưa vẹn, tình xướng hoạ chưa lâu, bỗng năm Ất Sửu niên hiệu Quảng Hựu [1085] mẹ cha đều mất, công chúa tóc tang.

Đến năm Bính dần [1086] nhà vua xuống chiếu cho Thái phó được nối chức cha, vẫn giữ tước củ là Tả đại liên ban, lại kiêm thêm Tri châu Vị Long, giữ tiết độ sứ, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó. [Thế là] được quyết định chính sự bắt đầu từ tằng tổ, sau đó cứ lần lượt thay nhau xuống đến mãi Hưng Tông, tất cả mười lăm đời. Ôi, chữ “thời”! Nước xây dựng trên đạo, vững như cột đá; dân hấp thu giáo hoá, xuôi như dòng sông. Hoặc việc nước có điều chưa trọn, thì suy đi nghĩ lại không thôi; xét thói xưa có chỗ đáng tin, thì tạc dạ ghi lòng nào bỏ. Vườn văn rừng phú, sưu tập khắp nơi; cửa lễ đường nhân, dạo chơi đủ chốn. Điều tín là ở nơi bè bạn thì tha thiết ân cần; chữ hiếu là thờ cúng tổ tiên thì băn khoăn khép nép.

Ôi! Giữ lòng thanh làm của báu, sợ một điều “lạc cực sinh bi”; mang hạt trai trong mình, e đã được mà lại mất. Muốn hưởng phúc thuần; lòng ham đạo Phật. Cho nên cuối xuân năm Đinh Hợi niên hiệu Long Phù Nguyên Hoá [1107], Thái phó dắt dẫn hương lão, xem hướng ở góc quận, chọn đất phía nam Hán Lộc, giáp bên mạn bắc Mẫu Cung [làm nơi dựng chùa]. Cùng đem rìu búa; phát xén rừng mây. Lại chọn thợ hay, xây dựng đền tía. Đẽo gỗ rừng chan chát; chuyển quang sọt rộn ràng. Xà uốn cong cong ngỡ cầu vồng bắc nhịp; mái hiên xoè cánh như chim chóc tung bay. Nhà trắng bao quanh, Tam ma địa gần gũi; tượng vàng đặt giữa, Ngũ tịnh thiên khác nào. Trầm hương nghi ngút, bốc tới trời mây; chuông khánh nhịp nhàng, vang lừng hang động. Hoa thông xanh tốt, chiếm mãi gió từ; cờ phướn quy y, bỏ xa nhà lửa. Nguyện chúc hoàng thượng ngự ngôi báu đời đời; giữ gương huyền mãi mãi. Phận dẫu chỉ là bầy tôi giữ đất; vẫn mang chí mong được gần trời. Thứ chúc quận quân, nương đạo cùng con gái, con trai: gái thì chọn đạo vu quy, đá vàng chung thuỷ; trai thì hết lòng phụng dưỡng, tùng bách xanh tươi. Cuối cùng kính chúc các vị tổ tiên, đều hưởng công ơn diệu quả; đầy đàn con cháu, tắm chung ân huệ lương duyên.

Muốn làm tỏ rõ đời nay, phải ghi bia đá; [cho nên Thái phó] đã sai tôi ghi dẫn và bầy tỏ như sau.

Lời rằng:

Định thể nào không,
Diệu dụng đâu có.
Không, có chớ lìa,
Quả, chân khôn xoá.
Không yên trung đạo,
Biết chọn bên nào?
Tỏ quyền giấu thực,
Đôi đằng tính sao?
Rằng xưa Phật tổ,
Dắt dạy quần sinh.
Không vướng không mắc,
Có duyên có tình.
Lớn thay họ Hà,
Rỡ ràng tiếng tốt.
Tiên tổ qua đời,
Cháu con nối gót.
Bốn mươi chín động,
Đúng mười lăm đời.
Non sông giữ vững,
Nhân ái giúp thời.
Chân tính sáng suốt,
Căn tuệ vững bền.
Ngói xanh lại lợp,
Cõi vàng dựng nên.
Phía nam Hãn Lộc,
Phía bắc Mẫu Cung.
Đất không bụi bặm,
Hơi núi mịt mùng.
Người giỏi ra đời,
Đạo thì thống nhất.
Công đức tạc bia,
Như non khôn mất.
Lạc khoản: “Triều thỉnh đại phu, đông thượng cáp môn hậu [...], thượng thư viên ngoại lang, tứ tử kim ngư đại Lý Thừa Ân soạn” 朝請大夫,東上閤門後【...】,尚書員外郎,賜紫金魚袋李承恩撰.

Tấm bia này được Ty văn hoá Tuyên Quang phát hiện năm 1984. Bia đặt trên lưng một con rùa lớn, trán bia đề “Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi”. Không rõ chùa Bảo Ninh Sùng Phúc ở đâu, nhưng theo một truyền thuyết vẫn còn lưu hành trong nhân dân thì xưa kia bia đặt ở địa phận xã Hoà Hú, về sau dân ở một vùng khác đã đến mang trộm đi. Nhưng khi mang đến địa điểm hiện nay, thì dừng lại để ăn khoai, ăn xong ra mang đi tiếp thì bia đã cắm sâu xuống đất, không tài nào lay chuyển được nữa. Bãi đất này từ đó có lên là bãi Khuân Khoai. Hiện nay, bia nằm ở chân núi Đan Hán, thuộc thôn Vĩnh Khoái, xã An Nguyên, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Bia cao 145cm, rộng 80cm, trán bia trang trí hình rồng mây và hoa dây. Hai bên là những vòng tròn nhỏ đọc theo chiều dày của bia. Mỗi vòng tròn là hoa hoặc rồng. Mặt sau đã mài nhẵn nhưng không có chữ.

Năm 1998, tấm bia này đã được công nhận là di tích cấp quốc gia. Năm 2007, tỉnh Tuyên Quang cho phục dựng lại ngôi chùa tại vị trí trên.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lý Thừa Ân » Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi