26/04/2024 22:33Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Sắc tứ Tú Phong tự bi
敕賜秀峰寺碑

Tác giả: Hồ Nguyên Trừng - 胡元澄

Thể thơ: Tản văn; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hồ, thuộc Minh
Đăng bởi Đông Hải Cù Sinh vào 31/05/2020 22:17

 

Nguyên tác

正議大夫資治尹工部左侍郎交南黎澄撰。
將仕郎鴻臚寺序班括郡季淳書。
文林郎大理寺右寺右評事清源莊琛篆額。

京都之西去城六十餘里有寺曰秀峰乃太監高公讓與住持僧智深之所剙也。深交南名僧姓吳氏自幼出家刻苦參學,以宣德戊申來至北京偶遇大國師吾公親僧錄司講經,月公,律帖公定覺,義烏公,顯拶公,勝納公,理禪公,忍三公,普有同鄉之誼得禮。灌頂廣善西天佛子大法師遂授心印住錫于暘臺山大覺寺日常徧閱大藏久不下山戒行精嚴人多欽仰。

一日散策寺北可三里許至于秀峰山麓,見其景致清勝,龍虎蟠旋,石壁巉巗環擁于其後,左右雙澗交流于其前,草木蓊蔚,花菓茂盛,意非凡地。乃詢于野老,曰:耆耇相傳此古寶刹之地也。深悲喜交並誓以恢復聖境。高公聞而喜之,乃勇猛發心傾竭財力為功德主,及與太監陳公昂,中貴黃公雄,阮福深,范覺壽,裴喜,金剛,阮覺目,鄭智廣,周普明,張福山等同捨己貲助師建立道場以上祝聖躬萬歲,天下太平。

師乃運用心匠,佈置規模,身自服勤以先徒侶,豐其傭食以來眾工。粵自宣德癸丑春起造至正統丁巳冬畢工,不五六年而山門卓犖,殿宇巍峨,丹雘晶熒,金碧煥爛,垣墻繚繞,廊廡翬飛,凡常住之攸司各有其所。太監陳公昂,阮公宗又捐家資印造大藏經文莊嚴櫃匣留于本寺以永其傳。師皆往返閲讀勵眾効勤,鐘鼓香燈,晨昏贊詠以保護國土,普濟群生。

至正統六年正月二十一日太監高公讓實具奏,欽蒙聖恩敇賜名額曰:“秀峰寺”,林麓生光,僧俗改觀。智深焚香稽首言曰:幸遇海内清平,人民富邑,又因諸公同發善心助成佛刹,致蒙恩賜,萬代垂光,可不刻石以示永遠?迺命其徒謁予徵文。予曰:深師勤勞以成佛事,諸公作福以報上恩,觀其用心同歸至善,是宜銘銘曰:

神州兌埜;
山挺秀峰;
蟠龍踞虎;
翕景藏風;
函弘爽朗;
秀氣所鐘;
澗泉冷冽;
草木豐茸;
藹然福地;
儼若梵宮。
梵宮伊何?
有規有制;
殿宇巍峨;
山門壯麗;
像設尊嚴;
龍天翊衛。
剙者伊誰?
智深住持;
爰經爰始;
載構載基;
大善檀越;
助以成之;
上祝聖壽;
下祐生民;
福田廣大;
幽顯霑恩。
寺既成止;
名亦正止;
賜額金書;
寵光煒煒;
惟我深師;
福慧兼備;
第一開山;
流傳後裔;
垂範將來;
述事繼志;
百世于玆;
有隆無替;
寺以永存;
銘同帶勵。

大明正統八年,嵗次癸亥孟夏佛誕日開山。
住持沙門智深立石。錦衣舍人朱興鐫。

Phiên âm

Chính nghị Đại phu, Tư trị doãn Công bộ Tả thị lang, Giao Nam – Lê Trừng soạn.
Tướng sĩ lang, Hồng Lô tự Tự ban, Quát quận – Quý Thuần thư.
Văn lâm lang, Đại Lý tự Hữu tự Hữu bình sự Thanh Nguyên – Trang Sâm triện ngạch.

Kinh đô chi tây khứ thành lục thập dư lý hữu tự viết Tú Phong, nãi thái giám Cao công Nhượng dữ trụ trì tăng Trí Thâm sở sáng dã. Thâm – Giao Nam danh tăng, tính Ngô thị, tự ấu xuất gia, khắc khổ tham học. Dĩ Tuyên Đức mậu thân lai đáo bắc kinh, ngẫu ngộ đại quốc sư ngô công thân tăng lục ti giảng kinh, Nguyệt Công, Luật Thiếp công định giác, Nghĩa Ô công, Hiển Toản công, Thắng Nạp công, Lý Thiền công, Nhẫn Tam công phổ hữu đồng hương chi nghị đắc lễ. Quán đỉnh Quảng thiện tây thiên phật tử đại pháp sư toại thụ tâm ấn, trú tích vu Dương Đài sơn Đại Giác tự. Nhật thường biến duyệt Đại tạng, cửu bất hạ sơn, giới hạnh tinh nghiêm, nhân đa khâm ngưỡng.

Nhất nhật, tán sách tự bắc khả tam lý hứa, chí vu Tú Phong sơn lộc, kiến kỳ cảnh trí thanh thắng, long hổ bàn toàn, thạch bích sàm nham hoàn ủng vu kỳ hậu, tả hữu song giản giao lưu vu kỳ tiền, thảo mộc ông uý, hoa quả mậu thịnh, ý phi phàm địa. Nãi tuần vu dã lão, viết: Kỳ củ tương truyền thử cổ bảo sát chi địa dã. Thâm bi hỉ giao tịnh, thệ dĩ khôi phục thánh cảnh. Cao công văn nhi hỷ chi, nãi dũng mãnh phát tâm, khuynh kiệt tài lực vi công đức chủ, cập dữ thái giám Trần công Ngang, trung quý[1] Hoàng công Hùng, Nguyễn Phúc Thâm, Phạm Giác Thọ, Bùi Hỉ, Kim Cương, Nguyễn Giác Mục, Trịnh Trí Quảng, Châu Phổ Minh, Trương Phúc Sơn đẳng đồng xả kỷ tư, trợ sư kiến lập đạo trường, dĩ thượng chúc thánh cung vạn tuế, thiên hạ thái bình.

Sư nãi vận dụng tâm tượng, bố trí quy mô, thân tự phục cần dĩ tiên đồ lữ, phong kỳ dung thực dĩ lai chúng công. Việt tự Tuyên Đức quý sửu xuân khởi tạo, chí Chính Thống đinh tỵ đông tất công, bất ngũ lục niên nhi sơn môn trác lạc, điện vũ nguy nga, đan hoạch tinh huỳnh, kim bích hoán lạn, viên tường liêu nhiễu, lang vũ huy phi, phàm thường trụ chi du ti, các hữu kỳ sở. Thái giám Trần công Ngang, Nguyễn công Tông hựu quyên gia tư ấn tạo Đại Tạng kinh văn, trang nghiêm quỹ hạp, lưu vu bản tự dĩ vĩnh kỳ truyền. Sư giai vãng phản duyệt độc lệ chúng hiệu cần, chung cổ hương đăng, thần hôn tán vịnh, dĩ bảo hộ quốc thổ, phổ tế quần sinh.

Chí Chính Thống lục niên, chính nguyệt nhị thập nhất nhật, thái giám Cao công Nhượng thực cụ tấu, khâm mông thánh ân sắc tứ danh ngạch viết: “Tú Phong tự”, lâm lộc sinh quang, tăng tục cải quan. Trí Thâm phần hương, khể thủ ngôn viết: “Hạnh ngộ hải nội thanh bình, nhân dân phú ấp, hựu nhân chư công đồng phát thiện tâm, trợ thành Phật sát, trí mông ân tứ, vạn đại thuỳ quang, khả bất khắc thạch dĩ thị vĩnh viễn?” nãi mệnh kỳ đồ, yết dư trưng văn. Dư viết: “Thâm sư cần lao dĩ thành phật sự, chư công tác phúc dĩ báo thượng ân, quan kỳ dụng tâm, đồng quy chí thiện, thị nghi minh minh viết:

Thần châu đoài dã;
Sơn đĩnh Tú Phong;
Bàn long cứ hổ;
Hấp cảnh tàng phong;
Hàm hoằng sảng lãng;
Tú khí sở chung;
Giản tuyền lãnh liệt;
Thảo mộc phong nhung;
Ái nhiên phúc địa;
Nghiễm nhược phạn cung.
Phạn cung y hà?
Hữu quy hữu chế;
Điện vũ nguy nga;
Sơn môn tráng lệ;
Tượng thiết tôn nghiêm;
Long thiên dực vệ.
Sáng giả y thuỳ?
Trí Thâm trụ trì;
Viên kinh viên thuỷ;
Tải cấu tải ky (cơ)
Đại thiện đàn việt;
Trợ dĩ thành chi.
Thượng chúc thánh thọ;
Hạ hựu sinh dân;
Phúc điền quảng đại;
U hiển triêm ân.
Tự ký thành chỉ;
Danh diệc chính chỉ;
Tứ ngạch kim thư;
Sủng quang vĩ vĩ.
Duy ngã Thâm sư;
Phúc tuệ kiêm bị;
Đệ nhất khai sơn;
Lưu truyền hậu duệ;
Thuỳ phạm tương lai;
Thuật sự kế chí;
Bách thế vu tư;
Hữu long vô thế;
Tự dĩ vĩnh tồn;
Minh đồng đới lệ.

Đại Minh Chính Thống bát niên, tuế thứ Quý Hợi mạnh hạ Phật đản nhật khai sơn.
Trụ trì sa môn Trí Thâm lập thạch. Cẩm y xá nhân Chu Hưng thuyên.

Bản dịch của Châu Hải Đường

Chính nghị Đại phu, Tư trị doãn Công bộ Tả thị lang, Lê Trừng người Giao Nam soạn.
Tướng sĩ lang, Hồng Lô tự Tự ban, Quý Thuần người Quát quận viết chữ.
Văn lâm lang, Đại Lý tự Hữu tự Hữu bình sự – Trang Sâm ở Thanh Nguyên viết chữ triện trán bia.

Từ kinh đô đi về phía tây thành hơn sáu mươi dặm, có ngôi chùa tên gọi Tú Phong, vốn do quan thái giám Cao Nhượng cùng với nhà sư trụ trì là Trí Thâm sáng lập lên. Trí Thâm là bậc danh tăng ở Giao Nam vốn người họ Ngô, từ nhỏ đã xuất gia, khắc khổ học hỏi. Năm Mậu thân niên hiệu Tuyên Đức (1428) sư đến Bắc Kinh, ngẫu nhiên gặp đại quốc sư giảng kinh ở ti Tăng lục, có các ngài Nguyệt Công, Luật Thiếp biết đến. Lại nhân các ông Nghĩa Ô, Hiển Toản, Thắng Nạp, Lý Thiền, Nhẫn Tam đều là những người có tình đồng hương mà đắc lễ. Đại pháp sư là bậc Tây thiên Phật tử có lòng quảng thiện bao trùm bèn truyền cho tâm ấn và trụ trì ở chùa Đại Giác trên núi Dương Đài. Thường ngày sư đọc hết kinh Đại Tạng, suốt thời gian dài không xuống núi, giới hạnh rất tinh nghiêm, mọi người đều kính ngưỡng.

Một hôm, sư chống gậy dạo bước lên phía bắc chùa chừng 3 dặm đến sườn núi Tú Phong, trông thấy cảnh trí đẹp đẽ, hình thế như rồng cuộn hổ nằm, vách đá chon von vây bọc quanh phía sau, bên phải bên trái hai dòng suối nối dòng ở trước mặt, cỏ cây mươn mướt, hoa quả tốt tươi, ý chẳng phải nơi phàm địa. Sư bèn hỏi thăm các bậc già lão, thì thấy bảo: các cụ già truyền lại đất này vốn là nơi chùa thiêng ngày xưa. Trí Thâm vui sướng nghẹn ngào nguyền sẽ khôi phục lại nơi đất thánh. Cao công nghe được mừng lắm, bèn ra sức phát tâm, dốc hết tiền của đứng ra làm chủ công đức, cùng với thái giám Trần Ngang, trung quý Hoàng Hùng, Nguyễn Phúc Thâm, Phạm Giác Thọ, Bùi Hỉ, Kim Cương, Nguyễn Giác Mục, Trịnh Trí Quảng, Châu Phổ Minh, Trương Phúc Sơn,… cùng bỏ tiền riêng giúp sư xây dựng đạo trường để cầu chúc thiên hạ thái bình, đức vua muôn tuổi.

Sư bèn dụng tâm sắp đặt, bố trí quy mô, tự mình chăm chỉ tân cần để làm gương cho môn đồ, sắp đặt tiền gạo dồi dào để thợ thuyền kéo đến. Thế là từ mùa xuân năm Quý sửu niên hiệu Tuyên Đức (1433) bắt đầu khởi tạo, đến mùa đông năm Đinh tỵ niên hiệu Chính Thống (1437) thì xong, chưa tới năm sáu năm mà sơn môn chất ngất, điện vũ nguy nga, màu son chói lọi, kim bích lung linh, tường hoa quanh co, toà ngang dãy dọc, phàm những nơi thường phải có thì chỗ nào chỗ ấy đều đầy đủ. Thái giám Trần Ngang, Nguyễn Tông lại quyên góp gia tư, để in ấn Đại Tạng kinh, đầy đủ hộp tủ nghiêm trang lưu giữ ở trong chùa để lưu truyền mãi mãi. Sư (Trí Thâm) vẫn thường qua lại xem đọc luôn luôn để khuyến khích mọi người cùng chăm chỉ học tập, chuông trống hương đèn, sớm hôm tán vịnh những mong bảo hộ quốc thổ, phổ tế quần sinh.

Đến ngày 21 tháng Giêng năm Chính Thống thứ 6 (1441), thái giám Cao Nhượng thực tình dâng tấu lên hoàng đế, kính đội ơn vua ban cho biển ngạch đề tên “Tú Phong tự”, khiến cho rừng núi cũng rạng rỡ, tăng tục đều mở mắt. Trí Thâm đốt hương dập đầu bảo: “May được gặp khi trong nước thái bình, nhân dân no ấm, lại nhân các ngài cùng phát thiện tâm mà giúp thành chùa phật, nên được ơn vua ân tứ, soi sáng muôn đời, há chẳng nên khắc bia mà lưu truyền mãi về sau ư?” Bèn sai đệ tử đến chỗ tôi nhờ viết văn bia. Tôi nói: “Sư Trí Thâm khó nhọc mong nên Phật sự, các ngài lại làm việc phúc để báo ơn vua, coi chỗ dụng tâm đều cùng đến nơi cực thiện, vậy xin viết bài minh rằng:

Đồng tây Thần Châu;
Núi dựng Tú Phong;
Hổ ngồi rồng cuộn;
Cảnh đẹp ẩn trong;
Rộng cao sáng láng;
Tú khí đúc hun;
Suối khe mát rượi;
Cây cỏ tươi hồng;
Thực nơi phúc địa;
Tựa chốn Phạn cung;
Phạn cung thế nào?
Có quy có chế;
Điện vũ nguy nga;
Cổng tường tráng lệ;
Tượng phật tôn nghiêm;
Thiên thần bảo vệ;
Dựng cảnh là ai?
Trí Thâm trụ trì;
Nào sau nào trước;
Xây đắp đủ bề;
Đàn việt lòng thiện;
Giúp việc chẳng nề.
Cầu chúc thánh thọ;
Phù trợ nhân dân;
Ruộng phúc to lớn;
Linh hiển ra ân!
Chùa đã dựng được;
Danh đã lập được;
Vua ban chữ vàng;
Sủng ân chói rực;
Sư Trí Thâm ta:
Kiêm gồm phúc tuệ;
Đứng đầu dựng chùa;
Lưu truyền hậu duệ;
Làm gương đời sau;
Thuật chuyện nối chí;
Trăm đời ở đây;
Thịnh hưng vẫn để;
Còn mãi chùa này;
Viết minh cổ lệ.

Ngày Phật đản tháng đầu mùa hạ năm Quý Hợi niên hiệu Chính Thống năm thứ 8 [1443] triều Đại Minh.
Sa môn trụ trì Trí Thâm lập bia. Cẩm y xá nhân Chu Hưng khắc.
Hiện ở Việt Nam văn chương của Hồ Nguyên Trừng mới được biết đến qua cuốn Nam Ông mộng lục. Nhưng tại chùa Tú Phong - một ngôi chùa do người Việt dựng tại Trung Quốc từ đời Minh ở phía tây Bắc Kinh hiện còn một tấm bia do Hồ Nguyên Trừng soạn văn bia. Đó là tấm bia Sắc tứ Tú Phong tự bi.

Chùa Tú Phong nằm trên núi Tú Phong thuộc thôn Nam An Hà, xã Bắc An Hà, khu Hải Điện, Bắc Kinh. Chùa do thái giám Cao Nhượng và nhà sư trụ trì người gốc Việt Nam là Trí Thâm khởi công xây dựng năm Tuyên Đức thứ 8 (1433) đời Minh đến năm Chính Thống thứ 2 (1437) đời Minh thì hoàn thành, được hoàng đế nhà Minh ban tên là Tú Phong tự. Ngôi chùa được xây dựng theo hướng đông, gồm ba lớp điện chính. Cuối đời Thanh chùa Tú Phong bị để hoang tàn. Đầu năm Dân quốc (1911) nhóm Lưu Trọng Lỗ, Bảo Thuỵ Thần mượn chùa và sửa chưa thêm lập toà báo Hạc quần. Mùa xuân năm Dân quốc 14 (1925) đạo sĩ Vương Tú Chân bỏ tiền ra mua lại chùa, năm 1926 lại mua thêm các núi xung quang chùa, sau đó đổi tên chùa thành Tu Chân quán, bái Trương Nghĩa Cung làm thầy trụ trì quán này. Năm 1928, Trương Nghĩa Cung chết, Tu Chân đạo sĩ bỏ đi, Lâm Hành Quy lấy núi Tú Phong làm biệt thự đã mua chùa viện và các khu xung quanh, và lại bỏ tên quán, đổi lại thành chùa, Bảo Thuỵ Thần đề một biển cho chùa là “Tú Phong cổ sát”. Năm 1937 nổ ra sự kiện Mùng 7/7 ở cầu Lư Câu chùa Tú Phong trở thành căn cứ địa cho đội quân du kích Trung Quốc. Năm 1944 lập trạm tình báo Bình Tây ở chùa Tú Phong, trạm trưởng là Lương Ba. Năm 1945, lập ra Tân văn yếu báo ở chùa Tú Phong, trong vòng 3 tháng phát hành khoảng 30 số, tổng biên tập là Triệu Phàm.

[1] Một danh xưng của thái giám.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Hồ Nguyên Trừng » Sắc tứ Tú Phong tự bi