20/04/2024 06:06Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bắc chinh - Bắc quy chí Phụng Tường, mặc chế phóng vãng Phu Châu tác
北征-北歸至鳳翔,墨制放往鄜州作

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 13/06/2005 16:32

 

Nguyên tác

皇帝二載秋,
閏八月初吉。
杜子將北征,
蒼茫問家室。
維時遭艱虞,
朝野少暇日。
顧慚恩私被,
詔許歸蓬蓽。
拜辭詣闕下,
怵惕久未出。
雖乏諫諍姿,
恐君有遺失。
君誠中興主,
經緯固密勿。
東胡反未已,
臣甫憤所切。
揮涕戀行在,
道途猶恍惚。
乾坤含瘡痍,
憂虞何時畢!
靡靡逾阡陌,
人煙眇蕭瑟。
所遇多被傷,
呻吟更流血。
回首鳳翔縣,
旌旗晚明滅。
前登寒山重,
屢得飲馬窟。
邠郊入地底,
涇水中蕩潏。
猛虎立我前,
蒼崖吼時裂。
菊垂今秋花,
石戴古車轍。
青雲動高興,
幽事亦可悅。
山果多瑣細,
羅生雜橡栗。
或紅如丹砂,
或黑如點漆。
雨露之所濡,
甘苦齊結實。
緬思桃源內,
益嘆身世拙。
坡陀望鄜畤,
岩谷互出沒。
我行已水濱,
我僕猶木末。
鴟鳥鳴黃桑,
野鼠拱亂穴。
夜深經戰場,
寒月照白骨。
潼關百萬師,
往者散何卒。
遂令半秦民,
殘害為異物。
況我墮胡塵,
及歸盡華發。
經年至茅屋,
妻子衣百結。
慟哭松聲回,
悲泉共幽咽。
平生所嬌兒,
顏色白勝雪。
見耶背面啼,
垢膩腳不襪。
床前兩小女,
補綻才過膝。
海圖拆波濤,
舊繡移曲折。
天吳及紫鳳,
顛倒在短褐。
老夫情懷惡,
嘔泄臥數日。
那無囊中帛,
救汝寒凜慄?
粉黛亦解苞,
衾裯稍羅列。
瘦妻面復光,
痴女頭自櫛。
學母無不為,
曉妝隨手抹;
移時施朱鉛,
狼藉畫眉闊。
生還對童稚,
似欲忘饑渴。
問事競挽須,
誰能即嗔喝。
翻思在賊愁,
甘受雜亂聒。
新歸且慰意,
生理焉得說?
至尊尚蒙塵,
幾日休練卒?
仰觀天色改,
坐覺妖氛豁。
陰風西北來,
慘澹隨回紇。
其王願助順,
其俗善馳突。
送兵五千人,
驅馬一萬匹。
此輩少為貴,
四方服勇決。
所用皆鷹騰,
破敵過箭疾。
聖心頗虛佇,
時議氣欲奪。
伊洛指掌收,
西京不足拔。
官軍請深入,
蓄銳何俱發。
此舉開青徐,
旋瞻略恆碣。
昊天積霜露,
正氣有肅殺。
禍轉亡胡歲,
勢成擒胡月。
胡命其能久,
皇綱未宜絕。
憶昨狼狽初,
事與古先別。
奸臣竟菹醢,
同惡隨蕩析。
不聞夏殷衰,
中自誅褒妲。
周漢獲再興,
宣光果明哲。
桓桓陳將軍,
仗鉞奮忠烈。
微爾人盡非,
於今國猶活。
淒涼大同殿,
寂寞白獸闥。
都人望翠華,
佳氣向金闕。
園陵固有神,
灑掃數不缺。
煌煌太宗業,
樹立甚宏達!

Phiên âm

Hoàng đế nhị tải[1] thu.
Nhuận bát nguyệt sơ cát.
Đỗ tử[2] tương bắc chinh,
Thương mang vấn gia thất.
Duy thì tao gian ngu,
Triều dã thiểu hạ nhật.
Cố tàm ân tư bị,
Chiếu hứa quy bồng tất.
Bái từ nghệ khuyết hạ,
Truật dịch cửu vị xuất.
Tuy phạp gián tránh tư,
Khủng quân hữu di thất.
Quân thành trung hưng chủ,
Kinh vĩ cố mật vật.
Đông Hồ[3] phản vị dĩ,
Thần Phủ phẫn sở thiết.
Huy thế luyến hạnh tại[4],
Đạo đồ do hoảng hốt.
Càn khôn hàm sang di,
Ưu ngu hà thì tất?
Mĩ mĩ du thiên mạch,
Nhân yên miểu tiêu sắt.
Sở ngộ đa bị thương,
Thân ngâm cánh lưu huyết.
Hồi thủ Phụng Tường huyện,
Tinh kỳ vãn minh diệt.
Tiền đăng hàn sơn trùng,
Lũ đắc ẩm mã quật.
Bân giao nhập địa để,
Kinh thuỷ trung đãng duật.
Mãnh hổ[5] lập ngã tiền,
Thương nhai hống thì liệt.
Cúc thuỳ kim thu hoa,
Thạch đới cổ xa triệt.
Thanh vân động cao hứng,
U sự diệc khả duyệt.
Sơn quả đa toả tế,
La sinh tạp tượng lật.
Hoặc hồng như đan sa,
Hoặc hắc như điểm tất.
Vũ lộ chi sở nhu,
Cam khổ tề kết thực.
Miến tư Đào Nguyên[6] nội.
Ích thán thân thế chuyết!
Pha đà vọng Phu trĩ,
Nham cốc hỗ xuất một.
Ngã hành dĩ thuỷ tân,
Ngã bộc do mộc mạt.
Si điểu minh hoàng tang,
Dã thử củng loạn huyệt.
Dạ thâm kinh chiến trường,
Hàn nguyệt chiếu bạch cốt.
Đồng Quan bách vạn sư,
Vãng giả tán hà thốt?
Toại linh bán Tần dân,
Tàn hại vi dị vật.
Huống ngã đoạ Hồ trần[7],
Cập quy tận hoa phát.
Kinh niên chí mao ốc,
Thê tử y bách kết.
Đỗng khốc tùng thanh hồi,
Bi tuyền cộng u yết.
Bình sinh sở kiều nhi,
Nhan sắc bạch thắng tuyết.
Kiến gia bối diện đề,
Cấu nhị cước bất miệt.
Sàng tiền lưỡng tiểu nữ,
Bổ trán tài quá tất.
Hải đồ sách ba đào,
Cựu tú di khúc chiết.
Thiên ngô cập tử phụng,
Điên đảo tại đoản hạt.
Lão phu tình hoài ác,
Ẩu tiết ngoạ sổ nhật.
Ná vô nang trung bạch,
Cứu nhữ hàn lẫm lật.
Phấn đại diệc giải bao,
Khâm trù sảo la liệt.
Sấu thê diện phục quang,
Si nữ đầu tự trất.
Học mẫu vô bất vi,
Hiểu trang tuỳ thủ mạt.
Di thì thi chu duyên,
Lang tạ hoạ mi khoát.
Sinh hoàn đối đồng trĩ,
Tự dục vong cơ khát.
Vấn sự cạnh vãn tu,
Thuỳ năng tức sân hát?
Phiên tư tại tặc sầu,
Cam thụ tạp loạn quát.
Tân quy thả uý ý,
Sinh lý yên đắc thuyết!
Chí tôn thượng mông trần,
Kỷ nhật hưu luyện tốt.
Ngưỡng quan thiên sắc cải,
Toạ giác yêu phân khoát.
Âm phong tây bắc lai,
Thảm đạm tuỳ Hồi Hột[8].
Kỳ vương[9] nguyện trợ thuận,
Kỳ tục thiện trì đột.
Tống binh ngũ thiên nhân,
Khu mã nhất vạn thất.
Thử bối thiểu vi quý,
Tứ phương phục dũng quyết.
Sở dụng giai ưng đằng,
Phá địch quá tiễn tật.
Thánh tâm phả hư trữ,
Thì nghị khí dục đoạt.
Y Lạc[10] chỉ chưởng thu,
Tây kinh[11] bất túc bạt.
Quan quân thỉnh thâm nhập,
Súc nhuệ hà câu phát.
Thử cử khai Thanh Từ[12],
Tuyền chiêm lược Hằng Kiệt[13].
Hạo thiên[14] tích sương lộ,
Chính khí hữu túc sát.
Hoạ chuyển vong Hồ tuế,
Thế thành cầm Hồ nguyệt.
Hồ mệnh kỳ năng cửu?
Hoàng cương vị nghi tuyệt!
Ức tạc lang bái sơ,
Sự dữ cổ tiên biệt.
Gian thần[15] cánh thư hải,
Đồng ác tuỳ đãng tích.
Bất văn Hạ Ân suy,
Trung tự tru Bao Đát?[16]
Chu Hán hoạch tái hưng,
Tuyên Quang[17] quả minh triết.
Hoàn hoàn Trần tướng quân[18],
Trượng việt phấn trung liệt.
Vi nhĩ nhân tận phi,
Ư kim quốc do hoạt.
Thê lương Đại Đồng[19] điện,
Tịch mịch Bạch Thú[20] thát.
Đô nhân vọng thuý hoa,
Giai khí hướng kim khuyết.
Viên lăng cố hữu thần,
Tẩy tảo số bất khuyết.
Hoàng hoàng Thái Tông[21] nghiệp,
Thụ lập thậm hoằng đạt...

Dịch nghĩa

Mùa thu năm thứ hai vua lên ngôi,
Vào ngày tốt tháng tám nhuận.
Bác Đỗ sắp đi xa lên miền bắc,
Thăm qua nhà cửa vợ con.
Trong thời buổi gặp nhiều gian khổ,
Từ triều đến quê ít có ngày thong thả.
Nghĩ thẹn được ơn đầy đủ hơn người,
Chiếu vua ban xuống cho về lều cỏ.
Lạy từ giã dưới bệ vua,
Dùng dằng mãi chưa dám bước ra.
Tuy còn thiếu tư cách bề tôi can vua,
Nhưng vẫn sợ vua có điều sai sót.
Vua thật là bậc vua chúa trung hưng,
Việc cai trị rất cẩn thận, chu đáo.
Giặc Đông Hồ vẫn phản nghịch chưa thôi,
Khiến Phủ này vô cùng căm giận.
Gạt lệ lưu luyến nơi hạnh tại,
Lòng vẫn bàng hoàng trên đường đi!
Đất trời còn chất chứa đau thương,
Nỗi lo buồn biết bao giờ dứt?
Đi lầm lũi trên bờ ruộng,
Khói bếp nhà ai tiêu điều xa xa.
Gặp nhiều những người bị thương,
Rên rĩ và máu chảy.
Quay đầu nhìn huyện Phụng Tường,
Thấp thoáng bóng cờ xí buổi chiều hôm.
Tiến lên trước, núi lạnh lẽo chập chùng,
Nhan nhản vũng nước ngựa uống.
Đi vào vùng trũng huyện Phần,
Sông Kinh nước dào dạt chảy.
Cọp dữ đứng trước mặt ta,
Cất tiếng rống lay đổ núi xanh.
Cúc rũ hoa thu năm nay,
Đã hằn vết bánh xe thuở trước.
Niềm hứng thú vút lên mây xanh,
Trong cảnh u tịch cũng có thể vui thích.
Trái rừng phần nhiều nhỏ lăn tăn,
Quả dẻ lần với dây leo.
Có trái đỏ như son,
Có trái đen như sơn.
Được mưa móc thấm nhuần,
Ngọt đắng gì cũng đều kết quả.
Nghĩ lan man đến cảnh Đào Nguyên,
Càng than tiếc mình vụng về.
Trông nề tế châu Phu gập ghềnh,
Hang hốc liên tiếp lúc ẩn lúc hiện.
Ta đã đi đến bờ sông,
Đầy tớ của ta như còn trên ngọn cây cao.
Cú kêu trong đám dâu vàng,
Chuột đồng chấp tay đứng lồn nhổn trước hang.
Đêm khuya đi qua bãi chiến trường,
Trăng lạnh lẽo chiếu vào xương trắng.
Trăm vạn quân ở ải Đồng Quan,
Sao ngày ấy tan rã chóng thế?
Khiến cho nửa số dân Tần,
Bị tàn hại ra ma hết!
Chính ta rơi vào đám bụi Hồ,
Khi về tóc đã hoa râm.
Đi liền năm đến mái nhà tranh,
Vợ con áo quần vá trăm mảnh.
Tiếng khóc thê thảm vọng trong gió đông,
Suối buồn như cùng nức nở theo.
Thằng con cưng thường khi,
Nước da bạc trắng hơn tuyết.
Thấy cha khóc quay mặt đi,
Chân không tất đầy cáu ghét.
Hai bé gái đứng trước giường,
Cái áo cũn cỡn chỉ quá đầu gối.
Trên hình biển thêu, làn sóng đã đứt gãy.
Đường thêu cũ chệch đi xộc xệch,
Con thiên ngô và con phượng tía.
Lộn xuôi lộn ngược trên manh áo mỏng ngắn,
Thân già thấy trong người không yên,
Vừa rên vừa tả nằm mấy ngày.
Trong bị đâu phải không có lụa,
Để cứu mọi người qua cơn rét căm căm.
Lại mở gói son phấn ra,
Bày la liệt trên tấm chăn.
Người vợ gầy mặt tươi lên,
Hai gái ngây thơ tự chải đầu lấy.
Bắt chước mẹ không gì là không làm.
Chúng trang điểm luôn tay,
Thỉnh thoảng chấm sáp xoa,
Nguệch ngoạc kẻ mày to bè bè.
Được sống trở về với con thơ,
Như quên cả đói khát.
Chúng hỏi chuyện, tranh nhau kéo râu,
Ai nỡ nào la mắng ngay!
Nghĩ lại nỗi buồn khi sa vào giặc,
Nên cứ để chúng quấy phá.
Mới về hãy vui sum họp đã,
Chưa bàn đến việc sinh nhai vội.
Đức chí tôn còn phải long đong,
Có mấy ngày lơi việc luyện quân đâu!
Ngước xem màu trời đã đổi thay,
Ngồi cảm thấy khí yêu quái bằng bạc.
Cơn gió lạnh từ tây bắc thổi tới,
Âm u theo đoàn quân Hồi Hột.
Vua của họ tự nguyện giúp ta,
Họ rất thạo việc xông pha chiến trận.
Ruổi năm nghìn người,
Xua một vạn ngựa.
Bọn họ ít mà tinh nhuệ,
Ai cũng phục họ gan dạ và quả quyết.
Tướng họ dùng nhanh như chim cắt bay,
Họ phá giặc còn hơn tên bắn.
Lòng vua rất tin cậy họ,
Khí thế họ át cả dư luận đương thời.
Y Lạc giơ bàn tay là thu lại được,
Tây Kinh chẳng cần phải hạ nữa.
Quan quân xin tiến sâu vào,
Nhuệ khí có thể vùng lên cùng một loạt.
Trận ấy mở lối qua vùng Thanh Từ,
Quay lại đánh chiếm Hằng Kiệt.
Trời sáng trong chất chứa móc sương,
Chính khí ắt có hồi thanh thoát.
Mầm hoạ đổi từ năm giặc Hồ mất,
Thế hình thành vào tháng bắt giặc Hồ.
Mạng giặc Hồ lâu dài sao được,
Vương nghiệp không thể mất.
Nhớ xưa lúc mới rối ren,
Việc so với thời cổ vẫn khác hẳn.
Bọn gian thần bị vằm nát,
Lũ đồng loã cũng rã tan.
Không nghe Hạ Ân lúc suy đốn ư?
Nội bộ tự giết bọn Bao Đát.
Chu Hán lại dấy lên,
Tuyên, Quang quả là bậc tài giỏi.
Tướng quân họ Trần anh hùng biết bao!
Chống ngọn giáo bừng bừng khí trung liệt.
Thiên hạ không có ai như ông,
Nhờ ông, nước nhà may mới còn.
Điện Đại Đồng lạnh lẽo,
Cửa Bạch Thú quạnh hiu.
Dân kinh đô ngóng bóng cờ vua,
Khí thịnh lại hướng về cửa vàng.
Vườn lăng bền vững thiêng liêng,
Từ trước đến nay không ngừng dọn quét.
Cơ nghiệp Thái Tông hùng vĩ thay!
Công lao gây dựng thật là lớn rộng...

Bản dịch của Nhượng Tống

Vừa năm hoàng hiệu thứ hai,
Ngày lành tháng tám nhuận, trời về thu.
Có chàng họ Đỗ co ro,
Sắp sang miền Bắc thăm dò vợ con.
Bấy giờ giặc giã hãy còn,
Trong triều, ngoài nội bận luôn đêm ngày.
Xin về, chiếu chỉ cho ngay,
Ơn trên nhuần thấm, niềm tây thẹn thùng.
Tạ từ lạy trước sân rồng,
Bồn chồn chưa dễ yên lòng ra đi.
Can ngăn tuy chẳng giỏi gì,
Sợ vua lầm sót có khi không chừng.
Như người, bậc chúa trung hưng,
Ngang trời, dọc đất, ai bằng được đâu!
Đông Hồ làm phản bấy lâu,
Lòng tôi đây vẫn ruột dàu, gan căm.
Xa hành cung, hạt lệ đầm,
Dọc đường còn vẫn âm thầm sớm trưa.
Đầy trời ghẻ lở nhớp nhơ,
Niềm lo, mối nghĩ bao giờ cho nguôi?
Đồng điền man mác trông vời,
Vì đâu khói bếp, bóng người vắng teo?
Bị thương gặp kể cũng nhiều,
Vỡ đầu, đổ máu rên kêu đầy đường.
Quay đầu nhìn lại Phượng Tường,
Chiều hôm cờ quạt nhập nhoàng nẻo xa.
Mấy trùng núi vắng đi qua,
Đào cho ngựa uống kể ra bao lò?
Quận Mân đất trũng lòng mo,
Sông Kinh nước chảy xô bồ mông mênh.
Trước ta hùm dữ đứng rình,
Tiếng gào chuyển cả non xanh bốn bề.
Thu nay cúc nở vừa thì,
Xe xưa đá ngấn vết đi rành rành.
Hứng cao lên tận mây xanh,
Bao nhiêu phong cảnh quanh mình đáng yêu.
Lon con quả núi cũng nhiều,
Trái đa, trái dẻ chít chiu đầy cành.
Đỏ như son nhuộm xinh xinh,
Đen như sơn phủ long lanh ưa nhìn.
Móc mưa nhuần thấm kết nên,
Thứ chua, thứ ngọt, sang, hèn như nhau.
Bâng khuâng nhớ chuyện nguồn Đào,
Nghĩ mình vụng dại biết bao ở đời.
Châu Phu chừng sắp tới nơi,
Chốc thời lên dốc, chốc thời xuống khe.
Bên khe ta đã lần đi,
Đoái nhìn người ở chưa lìa ngọn cây.
Dâu vàng, cú, vọ đậu đầy,
Hang đen là chỗ cáo, cầy lẩn chui.
Chiến trường đêm tới mấy nơi,
Thăng dăng xương trắng, trăng soi lạnh lùng.
Toán quân trăm vạn ải Đồng,
Năm xưa thua chạy lung tung miền này.
Dân Tần quá nửa chết lây,
Bị đâm, bị chém làm thây không đầu.
Bụi Hồ lẩn quẩn theo nhau,
Giũ xong, tóc đã nhuộm màu hoa râm.
Nhà tranh vắng đã cách năm,
Vợ, con về thấy áo trăm mụn chằng.
Nào than, nào khóc vang lừng,
Suối khe nghẹn giọng, thông rừng thua hơi.
Con nuông thằng bé xinh trai,
Nước da tuyết trắng sánh coi chưa tầy,
Thấy cha quay mặt hờn ngay,
Hai chân đen thủi, không giày, khổ chưa!
Trước giường hai gái ngây thơ,
Vá nan, vá đụp, áo vừa chấm khoeo!
Mụn tìm phá bức tranh thêu,
Bể, non, sóng, nước, xé liều khâu quanh.
Cho nên trên chiếc áo manh,
Thần sông, phượng núi, hai hình còn nguyên.
Thân già bụng dạ không yên,
Trên nôn, dưới tả nằm rên mấy ngày,
Đẫy cha có ít lụa đây,
Cắt may làm áo cho mày đỡ run!
Cởi bao, này phấn, này son,
Này chăn, này đệm hãy còn sót đây.
Vợ già mặt bủng tươi ngay,
Tóc con bù rối liền tay chải đều.
Điểm tô mặt phấn mỹ miều,
Mẹ xoa con cũng xoa theo, tức cười!
Môi son bôi đánh đã rồi,
Mày xanh lạt kẻ đầu đuôi to xù.
Đàn con đú đởn nô đùa,
Ngồi nhìn quên cả đói no trong lòng.
Ai người quát mắng được không?
Nắm râu chúng hỏi lung tung mọi điều.
Quấy rầy thôi cũng cố chiều,
Nhớ khi trong giặc bao nhiêu lo buồn!
Hãy mừng gặp vợ, gặp con,
Mới về, cách sống hãy còn gác bên.
Bề trên đương bước truân chuyên,
Mấy ngày là nghỉ tập rèn quân gia.
Trông lên trời đổi màu da,
Nhìn quanh yêu khí lan ra mịt mùng.
Gió đưa tây bắc lạnh lùng,
Theo vua, Hồi Ngột sẵn lòng giúp oai.
Giống này xông đột có tài,
Lính năm nghìn kẻ, ngựa thời muôn con.
Quân ngoài dùng ít là hơn,
Đánh hăng đã khét tiếng đồn khắp nơi!
Tướng toàn hạng cắt ngang trời,
Phá tan trận giặc như người chẻ tre.
Lòng vua có ý tin vì,
Người ngoài bàn bạc ra bề không vui.
Trong tay, Y, Lạc thu rồi,
Tây Kinh cũng chỉ nay mai lấy về.
Quan quân xin tiến dấn đi,
Đem quân so sức đồng thì đánh nhanh.
Chuyến này cướp lại Từ, Thanh,
Hằng Sơn, Kiệt Thạch để dành lấy sau.
Cơ trời bĩ thái theo nhau:
Có hồi nắng ấm, có chầu tuyết sương.
Vạ qua rồi đến phúc sang,
Giặc rồi phải vỡ, phải hàng không lâu.
Vận Hồ bền vững được đâu
Dòng vua chưa có lẽ nào đã suy!
Nhớ hồi bối rối trước kia,
So cùng đời cổ kể thì khác xa!
Gian thần tội chết không tha,
Bao nhiêu đảng nịnh, lũ tà chẳng dong.
Hạ, Thương nào thấy đường cùng,
Giết trang nghiêng nước, lấy lòng muôn dân.
Tuyên, Quang là bậc minh quân,
Cho nên Chu, Hán có lần lại lên.
Tuốt gươm thề với hoàng thiên,
Tướng Trần Nguyên Lễ gan liền trơ trơ!
Nước nhà được sống đến giờ,
Trừ ông ra, bảo còn nhờ vào ai?
Đại Đồng cung cũ vắng người,
Nọ đền Bạch Hổ thềm ngoài rêu phong.
Dân Kinh ngóng bóng xe rồng,
Lại đua ấm cúng về trong cửa vàng.
Các lăng linh khí mơ màng,
Lễ dâng giữ đủ lệ thường chẳng sai.
Cơ đồ này dựng lâu dài,
Lại lừng lẫy được như đời Thái Tông.
Ngày mồng một tháng tám năm Chí Đức thứ nhất (756), bấy giờ tình hình giặc đã hơi yên, ông xin về Phu Châu thăm gia đình. Không có ngựa, ông phải đi bộ, mãi đến Bàn Châu mới mượn được ngựa. Trên đường đi, ông đã chứng kiến cả một dải quê hương điêu tàn khốn khổ do chiến tranh. Ba bài Khương thôn cùng nhiều bài thơ khác như Thuật hoài, Bành Nha hành,... cũng được viết trong thời gian này và đều là những tác phẩm bất hủ. Tuy còn nhiều hạn chế trong tư tưởng, nhắm mắt ca ngợi triều đình, nhưng bài thơ đã tái hiện được nỗi khốn khổ do nạn binh đao, qua đó bày tỏ quan điểm phản chiến mạnh mẽ của ông. Bài thơ còn đồng thời là những dự cảm của ông về chính sự, bày tỏ nỗi lo ngại trước việc mượn người Hồ để dẹp nội loạn.

[1] Năm Chí Đức thứ 2 (757).
[2] Đỗ Phủ tự xưng.
[3] Chỉ phản quân An Sử. An Lộc Sơn là người lai giữa tộc Đột Quyết và dân tộc thiểu số vùng đông bắc, nên bộ hạ có nhiều người Hề và người Khiết Đan.
[4] Chỉ nơi vua đang ở.
[5] Chỉ các phiến đá trên núi dáng như mãnh hổ. Thơ Lý Bạch: “Thạch kính hổ phục khởi” 石惊虎伏起. Thơ Tiết Năng: “Điểu kính ác thì ưng lập hổ” 鳥徑惡時應立虎.
[6] Tức Đào Hoa nguyên trong bút của Đào Tiềm đời Đông Tấn.
[7] Chỉ việc Đỗ Phủ bị phản quân bắt vào tháng tám năm Chí Đức thứ nhất (756).
[8] Tên một bộ tộc ở tây bắc Trung Quốc đời Đường. Khi đó Đường Túc Tông mượn quân Hồi Hột để dẹp loạn An Sử. Đỗ Phủ dùng các từ “âm phong”, “thảm đạm” để miêu tả quân Hồi Hột ưa chém giết với ngụ ý cần đề phòng.
[9] Chỉ vua Hồi Hột là Hoài Nhân Hà Hãn, cho thái tử Diệp Hộ lĩnh bốn ngàn kỵ binh giúp quân nhà Đường.
[10] Tên hai con sông chảy qua Lạc Dương.
[11] Tức Trường An.
[12] Thanh châu và Từ châu, nay thuộc Sơn Đông, Tô Bắc.
[13] Hằng sơn và Kiệt Thạch sơn, nay thuộc Sơn Tây, Hà Bắc.
[14] Mùa thu.
[15] Chỉ bè lũ Vương Quốc Trung.
[16] Hai câu nhắc vua Kiệt nhà Hạ súng ái Hỉ Muội, vua Trụ nhà Ân sủng ái Đát Kỷ, vua U Vương nhà Chu sủng ái Bao Tự, đều dẫn đến mất nước. Ý nói Đường Huyền Tông tuy tin dùng anh em Dương Quý Phi, nhưng vẫn chưa đến mức sai lầm mất nước.
[17] Chu Tuyên Vương và Hán Quang Vũ Đế.
[18] Tức tả long vũ tướng quân Trần Huyền Lễ suất cấm vệ quân hộ tống Huyền Tông rời Trường An đến gò Mã Ngôi, giết Dương Quốc Trung và ép vua giết Dương Quý Phi.
[19] Chỉ việc Đường Huyền Tông khinh thường đám triều thần.
[20] Cửa Bạch Hổ của điện Vị Ương, đời Đường do kỵ huý Đường Cao Tổ Lý Hổ nên đổi thành Bạch Thú.
[21] Tức Lý Thế Dân.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Bắc chinh - Bắc quy chí Phụng Tường, mặc chế phóng vãng Phu Châu tác