26/04/2024 20:29Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thuỷ túc khiển hứng phụng trình quần công
水宿遣興奉呈群公

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/05/2015 18:22

 

Nguyên tác

魯鈍乃多病,
逢迎遠復迷。
耳聾須畫字,
髮短不勝篦。
澤國雖勤雨,
炎天竟淺泥。
小江還積浪,
弱纜且長堤。
歸路非關北,
行舟卻向西。
暮年漂泊恨,
今夕亂離啼。
童稚頻書劄,
盤餐詎糝藜。
我行何到此,
物理直難齊。
高枕翻星月,
嚴城疊鼓鼙。
風號聞虎豹,
水宿伴鳧鷖。
異縣驚虛往,
同人惜解攜。
蹉跎長泛鷁,
輾轉屢鳴雞。
嶷嶷瑚璉器,
陰陰桃李蹊。
餘波期救涸,
費日苦輕齎。
支策門闌邃,
肩輿羽翮低。
自傷甘賤役,
誰湣強幽棲。
巨海能無釣,
浮雲亦有梯。
勳庸思樹立,
語默可端倪。
贈粟囷應指,
登橋柱必題。
丹心老未折,
時訪武陵溪。

Phiên âm

Lỗ độn nãi đa bệnh,
Phùng nghinh viễn phục mê.
Nhĩ lung tu hoạ tự,
Phát đoản bất thắng bề.
Trạch quốc tuy cần vũ,
Viêm thiên cánh thiển nê.
Tiểu giang hoàn tích lãng,
Nhược hiểu thả trường đề.
Qui lộ phi quan bắc,
Hành chu khước hướng tê.
Mộ niên phiêu bạc hận,
Kim tịch loạn ly đề.
Đồng trĩ tần thư tráp,
Bồn xan cự tảm lê.
Ngã hành hà đáo thử,
Vật lý trực nan tề.
Chẩm cao phiên tinh nguyệt,
Nghiêm thành luỹ cổ bề.
Phong hào văn hổ báo,
Thuỷ túc[1] bạn phù ê.
Dị huyện kinh hư vãng,
Đồng nhân tích giải huề[2].
Tha đà trường phiếm nghịch,
Triền chuyển lũ minh kê.
Nghi nghi hồ liên khí,
Âm âm đào lý khê[3].
Dư ba kỳ cứu hạc,
Phí nhật khổ khinh tê.
Chi sách môn lan thuý,
Kiên dư vũ phiên đê.
Tự thương cam tiện dịch,
Thuỳ mẫn cưỡng u thê.
Cự hải năng vô điếu,
Phù vân diệc hữu thê.
Huân dung tư thụ lập,
Ngữ hiến khả đoan nghê.
Tặng túc khuân ưng chỉ,
Đăng kiều trụ tất đề[4].
Đan tâm lão vị chiết,
Thì phỏng Vũ Lăng khê[5].

Dịch nghĩa

Đã ngố lại lắm bệnh,
Thêm không quen lại cũng chẳng rành việc đón rước.
Tai điếc nên vẽ chữ mà chuyện trò,
Tóc ngắn chải không quá cái lược.
Vùng đất thấp này tuy có nhiều mưa,
Nhưng trời nồm nên bùn cạn lắm.
Sông con chỉ chứa sóng trong lòng,
Dây neo thuyền buông thòng theo đê dài.
Đường đi về không đúng như hướng bắc như ý muốn,
Thuyền trôi cưỡng lại không theo hướng tây.
Những năm cuối đời buồn bực vì cảnh trôi nổi,
Như đêm nay lại khóc than vì cảnh loạn ly.
Đàn trẻ cứ lục lọi cái rương đựng sách hoài,
Trên mâm cơm thì chỉ có rau với cháo.
Đời ta sao lại đến như thế,
Cái lẽ sự vật thậ khó mà phanh phui cho ra.
Nằm gối cao thấy trăng sao lất phất,
Nơi thành quân canh phòng cẩn mật, tiếng chiêng trống đổ hồi.
Qua gió nghe có tiếng hổ báo gầm gừ,
Ở trên mặt nước làm bạn với lũ le, bày cò.
Nơi huyện lạ sợ không dám lần mò tới,
Lại tiếc phải phải buông tay áo với người cùng đi thuyền.
Quẩn quanh mãi cứ như con mòng,
Chui lủi hệt như con cuốc.
Các quan trong huyện ngạo nghễ là tài cao,
Phận tôi lom khom là lối mận, đào.
Sóng thừa chờ ngày cứu hạn,
Ngày tháng bỏ hoài khổ cứ vun vút kế tiếp nhau qua đi.
Cứ chống gậy thì cửa ngõ cao sâu quá,
Mà đưa vai khiêng xe thì cánh đã rã rời rồi.
Tự thấy thương hại mình là chịu bó buộc với cái thấp hèn,
Ai thương cho kẻ bị buộc phải sống nơi tăm tối.
Biển lớn có thể là không câu được,
Nhưng mây bồng bềnh kia lại có thang lên.
Công lao bị lơ là thì nảy sinh thắc mắc,
Im lời có thể đoán được ý.
Cho thóc muốn chỉ trong kho,
Bước lên cầu tất đề lên cột.
Lão này chưa dứt lòng son,
Có khi còn tới thăm khe nơi Vũ Lăng nữa.

Bản dịch của Phạm Doanh

Đã bệnh lại lù đù,
Đón tiếp, xa lạc lối.
Vẽ chữ vì ù tai,
Tóc ngắn chẳng đủ búi.
Vùng nước tuy mưa nhiều,
Bùn mỏng trời nóng chói.
Nơi sông con, sóng ngưng,
Cạnh đê dài, neo thả.
Phía bắc đường kẹt về,
Hướng tây thuyền dừng lại.
Tối nay khóc loạn ly,
Năm trước buồn trôi nổi.
Sách vở con phá hoài,
Bữa ăn cứ rau mãi.
Đời tôi sao đến đây,
Việc đời thật khó nói.
Gối cao, trăng sao nhào,
Thành nghiêm, trống chiêng ỏi.
Qua gió, hổ báo nghe,
Ở nước, cò vạc tới.
Huyện lạ thăm còn e,
Người quen chia tay ngại.
Cái nghích mãi lênh đênh,
Con gà cứ lụi đụi.
Lối mận đào tù mù,
Đồ cúng tế chói lọi.
Cứu hạn, chờ sóng thừa,
Uổng ngày, khổ cứ nối.
Chống gậy, cửa ngõ sâu,
Kề vai, cánh đà mỏi.
Chịu ràng buộc, mình thương,
Phải sống ẩn, ai đoái.
Không cần câu biển xa,
Có thang leo mây nổi.
Thắc mắc sinh, công lơ,
Ý đoán được, chẳng nói.
Phải đề cột, cầu qua,
Muốn chỉ kho, thóc hỏi.
Lão chưa dứt lòng son,
Thăm Vũ Lăng còn đợi.
(Năm 768)

[1] Đỗ Phủ sống trên con thuyền nhỏ.
[2] Buông vạt áo để chia tay.
[3] Ngạn ngữ Trung Quốc: “Đào lý bất ngôn, há tự thành hề” 桃李不言,下自成蹊 (Đào mận không nói, cúi xuống thành lối), chỉ người chân thành đốc tín có thể thuyết phục được lòng người.
[4] Thề quyết chí lập công danh, như Tư Mã Tương Như viết trên thành cầu “Nếu không thành danh, sẽ không trở lại cầu này”.
[5] Vùng Vũ Lăng có 5 khe: Hùng, Lưỡng, Tây, Vu, Thần. Còn được gọi là Vũ Lăng nguyên 武陵源 hay Đào Nguyên 桃源, chỉ nơi sống yên ả bên ngoài cuộc đời, hoặc là nơi ẩn dật.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Thuỷ túc khiển hứng phụng trình quần công