23/04/2024 19:58Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Trường An thu vọng
長安秋望

Tác giả: Triệu Hỗ - 趙嘏

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Vãn Đường
Đăng bởi Vanachi vào 03/07/2006 06:29

 

Nguyên tác

雲物淒涼拂署流,
漢家宮闕動高秋。
殘星幾點雁橫塞,
長笛一聲人倚樓。
紫艷半開籬菊靜,
紅衣落盡渚蓮愁。
鱸魚正美不歸去,
空戴南冠學楚囚。

Phiên âm

Vân vật thê lương phất thự[1] lưu,
Hán gia cung khuyết động cao thu.
Tàn tinh kỷ điểm nhạn hoành tái,
Trường địch nhất thanh nhân ỷ lâu[2].
Tử diễm bán khai ly cúc tĩnh,
Hồng y lạc tận chử liên sầu.
Lư ngư chính mỹ bất quy khứ,
Không đới nam quan học Sở tù[3].

Dịch nghĩa

Mây trời, vạn vật, thê lương trôi lướt qua những toà dinh thự,
Cung khuyết nhà Hán thấp thoáng, chập chờn trong trời cao mùa thu.
Vài điểm sao sắp tàn, nhạn bay ngang quan ải,
Một tiếng sáo vang lên, người đứng tựa lầu.
Trong lặng lẽ âm thầm, rào cúc chớm nở vài đoá màu tía thật đẹp,
Lớp áo hồng bên ngoài đã rụng hết; đoá sen bên bến nước buồn bã.
Chính lúc này là lúc cá Lư đang ngon mà chẳng trở về được,
Sao cứ đội mũ của phương nam, học làm người tù nước Sở.

Bản dịch của Lý Tứ @www.maihoatrang.com

Dinh thự đìu hiu mây lướt ngang
Trời thu thấp thoáng Hán cung vàng
Nhạn băng ải vắng sao vừa lặn
Người tựa lầu son sáo khẽ vang
Lặng lẽ rào thưa chòm cúc nở
Buồn buồn bến nước cánh sen tàn
Cá Lư đang độ về không được
Tù Sở học đòi đội nón Nam.
Bài thơ này còn có tựa là Trường An vãn thu 長安晚秋.

[1] Chữ “thự” trong câu này có bản viết với bộ nhật với nghĩa ánh sáng lúc bình minh và cũng có bản viết với bộ võng với nghĩa dinh thự của quan viên.
[2] Câu này đã làm cho Triệu Hỗ có thêm cái ngoại hiệu là Triệu Ỷ Lâu.
[3] Chung Nghi là một viên quan của nước Sở bị Tấn bắt làm tù binh. Nơi đất Tấn ông chỉ đội mũ của quê hương (nam quan), được vua Tấn quý trọng là người có khí tiết nên tha cho về. Nam quan - Sở tù trở thành một điển tích để chỉ những người giữ được khí tiết dẫu gặp hoàn cảnh khốn cùng.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Triệu Hỗ » Trường An thu vọng