21/04/2024 03:14Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đệ thập bát cảnh - Huỳnh tự thư thanh
第十八景-黌序書聲

Tác giả: Thiệu Trị hoàng đế - 紹治皇帝

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi YensidTim vào 13/11/2020 06:51

 

Nguyên tác

成均遊藝惜光陰,
夜半咿唔倚案吟。
鼓吹久經調雅韻,
笙簧六籍聽佳音。
武城餘響弦歌美,
齒冑芳聞意味深。
遜志策勤相播告,
興文用慰待賢心。

Phiên âm

Thành quân[1] du nghệ[2] tích quang âm[3],
Dạ bán y ngô ỷ án ngâm.
Cổ xuý cửu kinh[4] điệu nhã vận,
Sinh hoàng[5] lục tích thính giai âm.
Vũ thành[6] dư hưởng huyền ca mĩ,
Xỉ trụ[7] phương văn ý vị thâm.
Tốn chí sách cần tương bá cáo,
Hưng văn dụng uý đãi hiền tâm.

Dịch nghĩa

Nhớ tiếc thời gian ta còn học trong trường,
Nửa đêm thường tựa án mà ngâm nga.
Ngân nga tiếng Cửu Kinh hoà hợp âm vận thanh nhã,
Trầm bỗng lời Lục Tịch (Lục Thư) để nghe thanh âm hay.
Tiếng nhạc Vũ Thành xưa vẫn vang vọng khúc ca hay,
Tiếng thơm từ những tài năng vẫn ý vị sâu sắc.
Ta kém chí nên cố gắng động viên truyền bá sách vở,
Cho mở mang việc học để an ủi tấm lòng của người hiền tài.

Bản dịch của Vĩnh Cao

Thuở học ngày xưa gây vấn vương,
Ngâm nga tựa án suốt đêm trường.
Cửu kinh tấu hợp đầy phong nhã,
Lục Tịch hoà âm đủ vạn chương.
Vũ Thành ca hát dư âm mãi,
Xỉ Trụ hương thơm ý vị trường.
Kém chí gắng sức truyền việc học,
Cho văn hưng thịnh thoả hiền lương.
Lời dẫn: “Tích Ung[8] chi thiết tuyên dương giáo đạo thiên hạ anh tài, Thái Học[9] chi nhân bàng bạc lưu thông cổ kim sự lý. Hoằng Văn quán[10] tứ phương hấp tập viễn bá hoàng phong, Viên Kiều môn[11] triệu chúng thính quán tăng long thế đạo. Chấp kinh vấn nạn khởi bất tư thiên cổ hữu quang, kế quỹ phần cao[12] ứng vô hạ tam dư[13] giảng tụng.” 辟雍之設宣揚教導天下英才,太學之人磅礡流通古今事理,弘文館四方翕集遠播皇風,圜橋門兆眾聽觀增隆世道,執經問難豈不思千古有光,繼晷焚膏應無暇三餘講誦。(Xây trường Tích Ung để tuyên dương việc dạy dỗ anh tài trong thiên hạ, người trong Thái Học làm dồi dào việc lưu thông lý lẽ cổ kim. Quán Hoằng Văn chiêu tập người khắp bốn phương để truyền bá phong hoá của đế vương, cửa Viên Kiều nghe học cả muôn người để làm sáng ngời đạo nhân trong cuộc thế. Cầm kinh sách hỏi chỗ chưa tường há không nghĩ đến rực rỡ ngàn xưa, đốt dầu đèn nối ánh ban ngày sao đành để lúc tam dư rảnh rỗi.)

Trường Quốc Tử Giám được thành lập lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1076 dưới thời Lý. Ngay từ đầu nó đã có tên gọi đó và giữ nguyên vị trí ở kinh đô Thăng Long, trong khuôn viên Văn Miếu ở Hà Nội ngày nay. Đến đầu triều Nguyễn, sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long đã quyết định xây dựng kinh đô tại Huế. Tháng 8 năm 1803, một trường học mang tính quốc gia đã được thành lập tại đây với tên gọi là Đốc Học Đường hay Quốc Học Đường. Tháng 3 năm 1820, vua Minh Mạng đổi tên trường thành Quốc Tử Giám và tên này tồn tại mãi đến năm 1945, khi trường Quốc Tử Giám chấm dứt vai trò của mình cùng với sự sụp đổ của vương triều Nguyễn.

Vị trí trước đây của trường Quốc Tử Giám tại Huế thuộc địa phận xã An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế chừng 5km về phía tây, nay thuộc địa phận làng An Bình, giáp với làng Long Hồ Hạ, huyện Hương Trà. Trường nằm bên cạnh Văn Miếu, mặt hướng ra sông Hương nên cảnh vật rất hữu tình. Dưới thời Gia Long, quy mô kiến trúc của trường còn nhỏ, chỉ gồm một toà nhà chính ở giữa và hai dãy nhà hai bên, dùng làm chỗ để quan Chánh, Phó đốc học giảng dạy. Sang thời Minh Mạng, quy mô của trường được phát triển to lớn hơn. Năm 1821, vua cho dựng toà Di Luân Đường, một toà giảng đường và hai dãy nhà học hai bên Di Luân Đường, mỗi dãy 19 gian phòng học, làm chỗ cho sinh viên đọc sách, làm bài. Đến đầu thời Tự Đức, Quốc Tứ Giảm đã khá bề thế nhưng trường vẫn tiếp tục được mở mang, xây cất. Năm 1848, xây thêm một toà nhà 9 gian, xung quanh có tường gạch bao bọc và hai dãy cư xá, mỗi bên 2 gian cho sinh viên. Trường cũng mở thêm 2 cửa nhỏ hai bên để sinh viên tiện ra vào.

Lúc bấy giờ, cả nước chỉ có một trường đại học ở kinh thành nên sinh viên quy tụ về đây rất đông. Vua Thiệu Trị đã xếp trường vào một trong 20 thắng cảnh của đất kinh kỳ. Sau đó vào năm 1854, trong một lần tới thăm, vua Tự Đức đã làm một bài văn và một bài thơ gồm 14 chương để răn dạy và khuyến khích sinh viên học hành. Toàn bộ trước tác này đã được khắc vào một tấm bia đá thanh lớn, dựng trước sân trường. Về sau, trường đã nhiều lần bị hư hỏng nặng do thiên tai, nhất là cơn bão năm Giáp Thìn (1904). Nhưng sau mỗi lần bị hư hỏng, trường đều được phục hồi. Đến năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giảm được dời vào bên trong kinh thành, sát phía đông Hoàng Thành. Quy mô của trường lúc ấy gồm có: chính giữa là Di Luân Đường; hai bên là hai dãy phòng học; trước mặt là hai dãy cư xá của sinh viên; phía sau trường, ở giữa là thư viện, hai bên là nhà ở của quan Tế tửu, Tư nghiệp và các viên chức khác của trường... Tuy nhiên, đây là quy mô của Quốc Tử Giám ở giai đoạn sau. Còn trường Quốc Tử Giám trong bài thơ này là ngôi trường đã tồn tại suốt 100 năm (1808-1908) tại vị trí bên cạnh Văn Miếu như đã nói trên.

[8] Trường học ngày xưa do Hoàng Đế thiết lập. Tích nguyên nghĩa là ánh sáng, ung có nghĩa là hài hoà. Đạo học ngày xưa chú tâm dạy cho con người ta sáng suốt và hài hoà.
[9] Cũng là tên của trường học ngày xưa.
[10] Là nơi lưu trữ sách vở, hiệu đính so sánh các thư tịch, có từ thời Đường. Đến đầu thời Minh, vẫn còn có tên này, song về sau nhập vào Văn Uyên các.
[11] Sách Hậu Hán thư ghi rằng, thời vua Minh Đế cho lập trường Tam Ung, chính nhà vua tự thân giảng kinh cho sĩ tử, nho sĩ. Người đến thường cầm sách để hỏi những điều còn chưa tường tận (chấp kinh vấn nạn). Người đến đây nghe giảng có đến hàng vạn và quây lại thành hình tròn (viên kiều), nên nơi này có tên là Viên Kiều môn.
[12] Quỹ là ánh sáng của mặt trời, cao là một đấu, chỉ chung cho chất đốt ngày xưa. Kế quỹ phần cao có nghĩa là đốt dầu để nối tiếp ánh sáng mặt trời. Ý nói chăm chỉ học suốt ngày đêm.
[13] Có nghĩa là ba phần dư thừa. Đổng Ngô thời Tam Quốc từng chú rằng: “Người đi học cần phải tận dụng hết tam dư, tức mùa đông là phần dư của năm, ban đêm là phần dư của ngày, tối tăm lúc mưa gió là phần dư của giờ”.
[1] Là trường đại học ngày xưa.
[2] Du nghĩa là rong chơi, nghệ ở đây chỉ lục nghệ. Du nghệ có nghĩa là rong chơi trong cõi lục nghệ, mà lục nghệ trong bài lại phiếm chỉ Lục kinh, tức Kinh dịch, Kinh thư, Kinh thi, Kinh lễ, Kinh nhạc, Kinh Xuân Thu. Vậy nên “du nghệ” cũng hàm nghĩa học hành.
[3] Quang là ánh sáng, âm là bóng tối. Từ này dùng để diễn tả thời gian.
[4] Tức chín loại kinh sách, mỗi thời xếp mỗi khác. Thời nhà Tống lấy Cửu kinh là Kinh dịch, Kinh thi, Kinh thư, Kinh Xuân Thu, Tả truyện, Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử. Thời nhà Minh, theo Trương Chiếu thì Cửu kinh gồm Kinh dịch, Kinh thi, Kinh thư, Kinh Xuân Thu, Chu lễ, Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử; nhưng theo Hác Kính thì gồm Kinh dịch, Kinh thi, Kinh thư, Kinh Xuân Thu, Lễ ký, Nghi lễ, Chu lễ, Luận ngữ, Mạnh Tử. Đến thời nhà Thanh, Huệ Đống lại xếp Cửu kinh gồm Kinh dịch, Kinh thi, Kinh thư, Chu lễ, Nghi lễ, Lễ ký, Công Dương truyện, Cốc Dương truyện, Luận ngữ.
[5] Sinh (sênh) là một loại nhạc cụ gồm nhiều ống trúc buộc vào nhau, hoàng là cái lưỡi gà bằng đồng hoặc thường là trúc mỏng nằm bên trong “sinh” để phát ra tiếng.
[6] Tên của một thành ở nước Lỗ. Khi Khổng Tử đến Vũ thành, ngài nghe thấy tiếng âm nhạc do học trò ngài là Tử Du dựa vào giáo hoá cho dân chúng, bèn cười bảo rằng: “Sát kê hà dụng ngưu đao?” (Giết gà cần gì dùng dao mỗ trâu). Tử Du thưa rằng: “Ngày xưa Yển (tên của Tử Du) nghe thầy dạy rằng quân tử học đạo tất thương mến người, tiểu nhân học đạo tất dễ sai bảo”. Khổng Tử cười nói rằng: “Này các đệ tử, trò Yếu nói đúng đấy, mấy lời ta nói vừa rồi chí là đùa đó thôi”.
[7] Xỉ có nghĩa là thứ tự theo tuổi tác, trụ là con cháu nối dõi về sau, còn để chỉ con trường. “Trụ tử” được dùng để chí con cháu của các bậc đế vương và công hầu khanh tướng.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Thiệu Trị hoàng đế » Đệ thập bát cảnh - Huỳnh tự thư thanh