Thay vì hai câu cuối, có bản chép:
Một mai bia đá tượng đồng,
Rửa hờn nghĩa liệt đền công nước nhà.
Kìa xem lịch sử Trung Hoa,
Hán Dương một trận đảo qua mấy lần.
Ầm ầm các tỉnh nghe tin,
Kéo cờ độc lập dựng nên Cộng hoà.
Anh em binh lính nhà ta,
Ai mà có bụng ắt là xong ngay.
Bởi vì súng đạn ở tay,
Giang sơn kéo lại một ngày như chơi.
Quả nay cơ hội đến nơi,
Bắc Nam đôi ngả mấy lời gởi trao.
Cờ sắc đỏ vẽ năm sao,
Giang sơn rõ mặt, đồng bào vỗ tay.
Bài vè khuyết danh này làm năm 1912, nói về vụ đầu độc quan binh Pháp ở Hà Nội năm 1908, có lẽ do đảng viên của Hoàng Hoa Thám chủ mưu. Việc thất bại, Bếp Hiên và sáu người nữa trong cơ lính nhà bếp bị xử tử. Nhưng bài thơ chỉ ghi bốn liệt sĩ: Nguyễn Chí Bình (Đội Bình), Nguyễn Văn Cốc (Đội Cốc), Đặng Đình Nhân (Đội Nhân), Nguyễn Đức A (Cai Nga), đều ở trong đội lính khố đỏ, và bà hàng cơm bị giết lây.
[1] Có bản chép “Vẳng tai nghe tiếng đài đầu”. Đài đầu ở đây có lẽ là đoạn đầu đài.
[2] Con Lạc cháu Hồng (con của loài chim Lạc, cháu của dòng giống Hồng Bàng), chỉ dân tộc Việt.
[3] Hay yàng, yang, tên gọi của vị chúa tể thần linh (ông trời) theo cách gọi của người dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
[4] Bốn hạ sĩ quân đội lính khố đỏ cầm đầu vụ đầu độc binh lính Pháp thành Hà Nội, gồm Đội Bình, Đội Cốc, Đội Nhân, và Cai Nga. Bốn người đều bị giặc Pháp xử tử ngày 8-7-1908.
[5] Nhiều lúc, nhiều lần (đòi từ cổ nghĩa là nhiều).
[6] Mưu kế (từ cổ).
[7] Theo kế hoạch, sau khi đầu độc lính Pháp trong thành, nghĩa quân Đề Thám sẽ kết hợp với lính khố đỏ yêu nước trong thành tấn công theo ba mũi. Mũi thứ nhất do Đội Bình (là tổng chỉ huy trực tiếp phụ trách, Cai Nga là phó) có nhiệm vụ tấn công vào Bộ tham mưu Pháp ở trong thành. Mũi thứ hai do Đội Nhân chỉ huy sẽ tấn công vào Phủ toàn quyền Đông Dương. Mũi thứ ba do Đội Cốc chỉ huy tấn công vào Phủ thống sứ Bắc Kỳ.
[8] Làng ở tỉnh Bắc Ninh, xưa là làng Cổ Pháp, có tên nôm là làng Báng.
[9] Hoàng Hoa Thám, còn gọi là Đề Thám, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống Pháp (1885-1913), được nhân dân suy tôn là Hùm thiêng Yên Thế.
[10] Sơn Tây, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An, Thanh Hoá, tên các tỉnh miền Bắc hoặc Bắc Trung Bộ.
[11] Nguyễn Chí Bình, tức Đội Bình.
[12] Nguyễn Văn Cốc, hay còn gọi là Dương Bê, tức Đội Cốc.
[13] Đội Nhân, tên thật là Đặng Đình Nhân, sinh năm 1880, quê ở Bạch Mai (nay thuộc khu phố Hai Bà Trưng, Hà Nội). Ông là một trong những người lãnh đạo vụ Hà Thành đầu độc. Vụ việc không thành, ngày 8/7/1908, ông bị chém cùng với các bạn đồng chí khác. Khi nghe kết tội “phiến loạn,” ông đã khẳng khái trả lời: “Ta không làm loạn, mà chỉ trung với nước!” Đầu của các ông bị bỏ trong rọ tre, treo ở cành đa cổ thụ, ngã tư Trung Hiền, cửa ngõ đông người qua lại ở làng Bạch Mai để thị chúng, nhưng ngay trong đêm đó, dân làng và họ hàng đã bí mật cướp đi chôn. Hiện nay ở Ba Đình, Hà Nội có con đường mang tên ông.
[14] Nguyễn Đức A, tức Cai Nga.
[15] Dùng máu bôi vào mép, thời xưa có lệ này đi đôi với việc thề nguyền để tỏ quyết tâm không sai lời. Ta thường nói “uống máu ăn thề”.
[16] Ngày 29 tháng 5 năm Mậu Thân (tức 27-6-1908), định lúc 7 giờ tối thì tiến hành vụ việc. Quân Pháp được tin mật báo trước nên hết sức đề phòng nhưng việc đầu độc vẫn thực hiện được. Trên 80 tên bị trúng độc nhưng chất độc làm bằng cà độc dược quá yếu nên chúng chỉ đau bụng ngất đi, sau cấp cứu thì sống lại. Việc phá kho súng do đó cũng không thành.
[17] Số đếm cũ, bằng một trăm nghìn (mười vạn).
[18] Tức Tam Kỳ, tên gọi chung cho ba vùng đất do thực dân Pháp và triều đình bù nhìn nhà Nguyễn phân chia nước ta vào thế kỉ 19. Ba kỳ gồm có: Bắc Kỳ (Tonkin, từ phía Nam tỉnh Ninh Bình trở ra), Trung Kỳ (Annam, từ phía bắc tỉnh Bình Thuận đến Đèo Ngang) và Nam Kỳ (Cochinchine).
[19] Dùng người nước Nam để giết người nước Nam, chỉ chính sách mộ lính tập người bản xứ để đánh dẹp các cuộc phản kháng vũ trang, được chính quyền thực dân Pháp thực hiện ở nước ta trong thời kì đô hộ.
[20] Phiên âm Hán Việt của 法蘭西 (faranxi), cách người Trung Hoa phiên âm chữ “France” - quốc hiệu nước Pháp. Tên gọi Pháp chính là xuất phát từ cách đọc này.
[21] Chỉ bà Sáu Tĩnh, tức bà Nguyễn Thị Luyến (1856-1909), cùng bán hàng cơm với chồng. Nhà số 20 phố Cửa Nam của ông bà là nơi hội họp bàn việc tổ chức đầu độc. Sau khi âm mưu đầu độc thất bại, bà Sáu Tĩnh đã bị Pháp tra tấn tàn nhẫn (nung kìm để cặp vào vú, cho vào thùng đóng đinh rồi lăn...) nhưng bà nhất quyết không chịu khai, mấy tháng sau thì mất. Có thuyết nói người hàng cơm đây là một người phụ nữ trẻ gọi là cô Nhiêu Sáu, tên thật là Nguyễn Thị Ba.
[22] Cái giá để mắc áo, cái túi để đựng cơm. Ý chỉ những người vô dụng, tầm thường, thân thể chỉ để mắc áo và đựng cơm.