28/04/2024 02:39Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đệ thập lục cảnh - Hải nhi quan ngư
第十六景-海兒觀魚

Tác giả: Thiệu Trị hoàng đế - 紹治皇帝

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi YensidTim vào 13/11/2020 04:11

 

Nguyên tác

一泓少海印睛空,
影水魚佃布扈藂。
縱壑之而諸穴窟,
滿江游泳盡牢籠。
忘機鷗鷺飛身外,
窺伺魚鰕入手中。
風月壼天蘇息樂,
四民安遂慰余衷。

Phiên âm

Nhất hoằng thiểu hải ấn tình không,
Ảnh thuỷ ngư điền bố hỗ tùng.
Túng hác chi nhi chư huyệt quật,
Mãn giang du vịnh tận lao lung.
Vong cơ âu lộ phi thân ngoại,
Khuy tí ngư hà nhập thủ trung.
Phong nguyệt hồ thiên tô tức lạc,
Tứ dân an toại uý dư trung.

Dịch nghĩa

Một vùng biển nhỏ in hình bầu trời quang đãng,
Những sáo the vây phủ để đánh bắt cá soi mình trên nước.
Cá tung tăng trong hốc, lên xuống nơi các hang,
Bơi lội khắp sông đầy những lồng bẫy.
Chẳng cần bận tâm đến chim âu chim lộ bay ra bên ngoài,
Chỉ rình xem cá tôm lọt vào trong tay mình.
Hít thở bầu trăng gió của trời mà vui,
Tứ dân (sĩ, nông, công, thương) an lạc đã an ủi cho lòng ta.

Bản dịch của Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung

Biển nhỏ một vùng lộng sắc trời,
Sáo the vây cá, lắng dòng soi.
Hốc hang một lũ tung tăng quẫy,
Lồng bẫy từng đàn vùng vẫy bơi.
Âu lộ bay ngoài lòng chẳng bận,
Cá tôm mắc lưới ý nào vui.
Tâm hồn rộng mở cùng trăng gió,
An lạc muôn dân dạ thảnh thơi.
Lời dẫn: “Hà Trung hải nhi nghê: Hợp giang hà nhi hạo hãn, thiếp ba lãng nhi thương mang. Cực mục tiếp thiên vọng trung vô tế, phi hoài quán thuỷ tri chỉ hồi lan. Y sơn duyên chử chi giải trang thừa phong yêu nguyệt, ảnh thuỷ trục lưu chi ngư đĩnh bài hỗ liệt tăng, khoá bích điệu hồng mạc bất tận quy vu la võng, tước kim toản lục vô thâu tương đắc ư hào lương. Phiếm thuyền dĩ nhã quán, hỉ ngô dân chi lạc nghiệp.” 河中海兒:合江河而浩瀚,帖波浪而蒼茫,極目接天望中無際,披懷觀水知止洄瀾,依山沿渚之蟹庄乘風邀月,影水逐流之漁艇排扈列罾,跨碧掉紅莫不盡歸于羅網,爝金鑽綠無輸相得於濠梁,泛艛船以雅觀,喜吾民之樂業。(Phá Hà Trung: Hợp các sông nên bát ngát, định sóng cả khiến bao la. Mở tầm mắt ra tận trời chẳng thấy đâu bờ bến, đem hết sức mà nhìn biển cả chỉ biết sóng cồn. Men theo bờ ven núi, ngư thôn thưởng trăng hóng gió, soi bóng nước thuận dòng, thuyền chài vây lưới giang câu. Vùng vẫy đỏ xanh nhiều nào kể xiết, đều quy về lưới, nướng vàng đâm lục kiếm được không thua ở chốn hồ ao. Thả thuyền con để thanh thản ngắm, vui mừng thấy dân ta lạc nghiệp.)

Có lẽ hiếm nơi nào ở Việt Nam có địa hình độc đáo như vùng Huế: Một dải đầm phá mênh mông nằm ở cuối chân đồng bằng, hình dáng tựa như chiếc gáy lược khổng lồ. Đây là nơi tụ hội và hoà nhập của các dòng sông trước khi đổ ra biển. Phá Hà Trung là một trong các đầm lớn nằm trong dải đầm phá ấy. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, phá Hà Trung trước thuộc huyện Phú Vang, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) mới được đổi về địa phận huyện Phú Lộc. Xét về vị trí, phá Hà Trung nằm ở phía đông bắc huyện này. Nước phá do các nguồn sông Lợi Nông, Sư Lỗ và Cao Đôi tụ lại, rộng hơn hai dặm (khoảng hơn 1km). Phá gồm có hai đầm là Hà Trung và Minh Lương. Nước phá, một đường chảy về phía đông nam ra cửa Tư Hiền, một đường chảy về phía đông bắc ra cửa Thuận An.

Trước đó, trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã mô tả về phá như sau: Huyện Phú Vang, trên thì núi, giữa thì đầm phá, dưới thì biển. Phá Hà Trung rộng lớn không thấy bờ, không biết là bao nhiêu mẫu, khoảnh. Dân cư ở vòng quanh bốn bề. Xã Diêm Trường ở giữa phá. Một bên là cầu thông sang bờ sông Nghi, dài đến 110 nhịp. Bờ phá, những chỗ lõm vào đều thành đầm. Ở đây có các đầm Minh Lương, Ô Trà và Đa Đả. Mỗi năm vùng này nộp thuế đến nghìn quan. Như vậy từ xa xưa, vùng quanh phá Hà Trung đã rất trù phú, phong quang. Đất giàu, cảnh đẹp, đặc biệt bên bờ phá lại có núi Linh Thái, núi Thuý Vân nổi tiếng, nên phá Hà Trung là nơi các vua chúa Nguyễn thường dong thuyền về chơi, các tao nhân mặc khách cũng hay tụ hội về đây thưởng cảnh làm thơ. Ngoài tính chất miêu tả phong cảnh, bài này còn thể hiện tấm lòng của nhà vua trước niềm vui bội thu của ngư dân.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Thiệu Trị hoàng đế » Đệ thập lục cảnh - Hải nhi quan ngư