26/04/2024 02:43Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

VI. Vương mấy tơ đồng

Tác giả: Phạm Thiên Thư - Phạm Kim Long

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hiện đại
Đăng bởi Vanachi vào 31/03/2008 00:54

 

Bức thứ sáu:
(Kiều mươn cây đàn xem - thì chính là cây đàn của
Từ Hải - còn mang dấu khắc bài thơ cảm tác của nàng,
nhân một đêm nghe tâm sự của Từ về cây đàn
của Trần Nguyện Mai - người yêu đã khuất của chàng
ở đất Châu Phong (Việt Nam) - và qua cây đàn này,
Từ Hải cũng được một Thiền sư dạy lẽ Vô Thanh)



Đèn khêu, cửa khép, ai hoài
Trầm thơm lò cũ, vắn dài hàng ngân
Đàn ơi! Tiếp tục tầm Xuân
Ngờ đâu có lúc quây quần ánh trăng
Còn dây tơ buốt lòng băng
Tìm đâu một cánh chim bằng đã qua (310)
Còn đây gỗ bạc trục ngà
Theo ai sương sớm giang hà những xưa
Còn dây xào xạc cung mưa
Đàn ơi kim cổ không bờ cách ngăn
Một chùm sao biếc hiên văn
Theo tay nhật nguyệt Kiều lăn hạt sầu
Thơ nàng - Từ khắc đôi câu
Bây giờ dấu kiếm còn sâu bụi làn
Nhớ người yên gió quan san
Vó tung chuyển đất, tiếng ran lệch trời (320)
Một hôm mắt nộ khí ngời
Ầm rung giọng sấm tột vời chí cao
Giận phường ô lại cường hào
Đùng đùng bão nổi, ào ào mây đi
Thanh gươm mở rộng biên thuỳ
Yên dân riêng cõi, triều nghi rỡ ràng
Cờ mây rợp, mặt trời vàng
Sao rung kiếm động, rừng vang hịch truyền
Rộng cho hoa cỏ truân chuyên
Quân cơ trướng gấm đòi phiên dự phần (330)
Nhớ đêm tạm gác việc quân
Nhìn cây đàn cũ, hỏi dần duyên do
Tơ chùng, trục bụi không so
Gỗ phai màu nắng - dậy cho lẽ nào
Dù trong muôn trận guơm đao
Đàn theo yên ngựa, ra vào như không?
Có chi vương mấy tơ đồng
Gửi cây đàn cũ - lòng mong đáp đền
***
Từ rằng: Hận chửa nguôi quên
Tấm thân còn đó, lời nguyền sao tan (340)
Vời trông đất cũ mây ngàn
Người xưa gửi nắm xương tàn khe sâu
Anh linh hoà ánh tinh cầu
Chừng nghe cây cỏ phai màu ngoài song
***
Ta từ quê cũ Châu Phong
Nếp nhà thư kiếm, Lạc Long dõi nguồn
Xuân xanh mười tám triêu dương
Thánh hiền chí vững, cung gươm tài lừng
Sơn hà - một đẫy sau lưng
Quyết thanh nội loạn, quyết trừng ngoại xâm (350)
Lửa hờn rèn chí nung tâm
Anh em tìm chốn sơn lâm dựa mình
Cõi biên vùng vẫy thân kình
Cờ toan mở gió triều đình một phương
Luỹ đồn rải rác non sương
Chiêu binh nghĩa dũng, liệu đường tiến quân
***
Duyên trời gặp một giai nhân
Cũng dòng thanh khí là Trần Nguyện Mai
Chí nàng toan mở cõi ngoài
Đèn chong gối sách, gươm mài ánh sao (360)
Dặm hồng vó bụi tung cao
Tóc xanh mây hạ, má đào hoa ban
Nặng vì Dân, Nước - lo toan
Lược Thao cùng với Thơ, Đàn sánh đôi
Khi ngày điều trận ven đồi
Khi đêm xướng hoạ, bồi hồi cầm thanh
Hai ta mở cõi dựng thành
Lòng người những muốn, trời xanh chẳng chiều
Một phen binh giáp tiêu điều
Vó bay theo vó, ngựa liều dặm băng (370)
Giặc như lớp lớp mây giăng
Phá tan đồn trại, san bằng luỹ tre
Gươm vung - sấm giựt, chớp loè
Hết xuyên bão nổi, lại đè sóng cao
Song song gái kiệt trai hào
Rừng gươm tên gió ra vào hai ta
Mở đường máu quyết thoát ra
Gió tan, hẹn dấy phong ba lại ngày
Vó tung vượt mấy trùng vây
Máu loang chân ngựa, non thây chật đồng (380)
Cánh chim chưa thoát khỏi lồng
Ngại ta chia trí, bận lòng ái ân
Trao đàn lại, giữa vòng quân
Vực sâu gieo nhẹ tấm thân tự tồn
Sói lang còn ngẩn ngơ hồn
Xuyên mây tiếng thét dập dồn giặc lui
Dựng bờm ngựa cũng bừng vui
Ầm ầm gió lớn cuộn vùi cỏ khô
Núi giàn thế hiểm lô xô
Một thân ngựa đạp trận đồ mà ra (390)
***
Yên dừng biên giới ngã ba
Thanh gươm bốn biển không nhà - về đâu
Năm ngàn nghĩa sĩ lạc nhau
Tình duyên thoảng đã qua cầu gió bay
Bốn phương biêng biếc ngàn mây
Dường như thừa một thân này chẳng dung
Nửa toan trở kiếm tranh hùng
Nửa toan tìm chốn núi rừng tụ quân
Cây đàn trên ngựa - phân vân
Bốn dây tay chợt buông ngân tiếng hờn (400)
Tiếng chi thác đổ mây vờn
Chừng nghe kiếm gãy xanh rờn lửa reo
Tiếng chi suối le tuôn theo
Chừng nghe sương tụ, gió heo hút trời
Chợt lưng non hiện bóng người
Tay nương Thiền trượng, tới nơi, giật mình
Thương nàng vì nước hy sinh
Ta đang thiếp mệt, tâm tình nát tan
Nhà sư cất tiếng hỏi han:
Ai kia ôm mối đoạn tràng đi đâu (410)
Vừa nghe như tỉnh lòng sầu
Xuống yên thi lễ, cúi đầu tỏ thưa
Thiền sư cười đáp: Ta chờ
Đã lâu, mới vẳng một tơ não nùng
Khác gì trống nổi trăng rung
Khác gì nhỏ lệ anh hùng dưới sao
Chí người như cánh chim cao
Lạ thay! Lòng lại giam vào hữu thanh
Cuộc đời - sương thoảng, mây nhanh
Có Không - hạt móc đầu cành nhẹ rơi (420)
Bao nhiêu đương thức loài người
Che đi nguyên tánh toả ngời tự thân
Muốn xoay chuyển lại cuộc trần
Phải đồng sức mạnh toàn dân vẫy vùng
Tay kia chẳng lướt năm cung
Cho dâu biển trổ muôn trùng trái hoa
Diệu hành - là tiếng Không Ta
Không thanh âm ấy mới là âm thanh
Dậy rồi, vóc hạc bay nhanh
Viền trăng vô tướng đầu cành trượng treo (430)
Lòng ta gió bão tan theo
Mây hồng phất phới trên đèo hào quang
Yên sương buộc chặt cây đàn
Hai mươi năm lẻ chưa tan lời nào
Tiếng thầm giục cánh chim cao
Ngựa phai sắc gió, chiến bào nhạt mây
Cây đàn - nàng mới hỏi đây
Là di chúc, lẫn lời Thầy - còn vương
***
Mốt mai ta bỏ sa trường
Sẽ đưa Kiều lại cố hương lần hồi (440)
Bên dòng suối ngắm hoa trôi
Cất gian lều nhỏ lưng đồi cỏ may
Xuống đồng tát cá, bới khoai
Vào non bẫy thú, nằm dài nghe chim
Anh em nhớ đến nhau tìm
Qua nương trẩy một giỏ sim làm quà
Hứng nước suối thết bình trà
Hái bầu nấu bát canh hoa cuời khàn
Vuốt râu, viết sách, hưởng nhàn
Then mây khoá một niết bàn bên khe (450)
Mai sau viễn khách nào nghe
Tìm thăm hang đá hỏi bè mây xanh
Như Người phá giặc tan tành
Vó mây Phù Đổng, công danh bọt bèo
Vươn vai như biển dâng triều
Đường về chỉ thấy sương chiều non giăng
Kiều thưa: Rõ tấm can tràng
Rồng thiêng ẩn cánh phượng hoàng bạt mây
Phận hoa dám tưởng đâu ngày
Song song đôi ngựa, cỏ cây tần ngần (460)
Non cao mới biết trăng gần
Đớn đau mới rõ dấu chân phi thường
***
Trò đời tranh bá đồ vương
Ngàn năm phơi trắng bãi xương lập loè
Lời than tiếng khóc còn nghe
Gầm trời đâu chẳng khói che mịt mù
Có chăng, goá phụ phòng thu
Mạch sầu ngâm kỹ tiếng ru truyền đời
***
Từ nghe mắt thẳm trùng khơi
Sương un chén ngọc, tay ngời ánh trăng (470)
Nhìn cây đàn lạnh tơ băng
Tóc bay mờ nhạt, sông Hằng sao thưa
Cảm trong nữ tướng rừng xưa
Tay Kiều hạ mấy dòng thơ lệ tràn
Từ đem thích dưới thành đàn
Bây giờ dấu cũ trơ làn sương phai
***
Đêm nay Kiều lại u hoài
Lệ rơi đàn - bật dây ai não nùng
Tiếng nào heo hút âm cung
Ngoài song lãng đãng một vùng cỏ hoa (480)
Hiển linh trong gợn âm ba
Thành đàn cài nửa trăng tà nghiêng nghiêng
Vai Kiều óng giải mây huyền
Vuốt ve đâu gợn gió thiêng thoảng về
Sao trời - ngỡ cánh hoa lê
Dường như ánh mắt xưa kề mênh mông
***
Lại đêm trướng gấm trầm xông
Từ nghe trinh bạch nỗi lòng nghĩa binh
Hồ tổng đốc - Tướng triều đình
Bỏ phường ô lại, chiêu nghinh hiền tài (490)
Lại đem danh lợi chiêu bài
Lại đem tông tích "rợ ngoài" truyền rao
Còn đang vá giáp, mài đao
Binh cơ trễ nải, anh hào phân vân
Nửa vì đại nghĩa cố nhân
Nửa e ngoại chủng, có phần hiềm nghi
Thì thầm kẻ ở người đi
Giáo gươm lơ đễnh, quân kỳ ngả nghiêng
Lấy gì gióng trống thúc chiêng
Gài ta vào thế tư riêng rõ ràng (500)
Từ ngồi nung nấu tâm can
Tuỳ cơ liều phải trá hàng một phen
Chờ khi giáp mặt hai bên
Rút đao bắt tướng, thế lên mấy hồi
Chỉ còn ứng kế này thôi
Con tin khi nắm chắc rồi - sẽ hay
Bằng không - ngọt một đường bay
Dù xa trăm thước đao này trệch đâu
Rồi ta tuẫn tử qua cầu
Cơ đồ trả lại cho mầu cỏ non (510)
***
Được thua một trận cười ròn
Cái chi còn lại - hoạ còn văn chương
Tội Kiều trải lắm đau thương
Chẳng ơn xuân sắc lại chường gió Đông
Cha già mẹ yếu ngùi trông
Buồm đi cuối biển, bến mong sum vầy
***
Nghiêng nghiêng vò rượu nốc say
Chống gươm sáu thước, dựng mày cọp thiêng
***
Kiều thưa: Chàng có chi phiền
Phen này cho thiếp trận tiền được theo (520)
***
Mắt Từ như nửa trăng treo
Rằng nơi bãi chiến lắm chiều gian nguy
Việc quân - Kỳ, Chính còn tuỳ
Thân ta muôn trận đã lỳ kiếm cung
Ngại khi gươm giáo chập chùng
Đất bằng kia lỡ bỗng vung sóng cồn
Thôi! Nàng mắt khải hoàn môn
Ngồi pha trà đợi, vân bôn ngựa về
Qua sông chỉ ngọn kiếm thề
Không yên thế giặc không về qua sông (530)
Môi kia ai đậm cánh hồng
Lầu xuân chờ nở một bông hướng vời
Ta đi trong áng mây dời
Tung cờ vĩnh cửu chơi vơi lá sầu
Ngọn cờ ảo hoá thiên thâu
Cuối đường vĩnh tuyệt rầu rầu cỏ xanh
Lối ra - trống đổ tràng thành
Hoa Thu trổ ngát, tinh anh dấu về
Trái tim dũng sĩ không hề
Cần chi một tấm mộ bia dựng buồn (540)
Biết nhau - hạt lệ ngùi tuôn
Cũng là rửa sạch đoạn trường gió bay
Tử, Sinh - như áo đổi thay
Lửa thiêng trao những bàn tay - chẳng tàn
***
Rồi Từ - như ánh sao tan
Đêm nay loé giữa lòng đàn nao nao
Trăng nghiêng nhớ mắt xưa nào
Non xa còn khoác chiến bào nhạt sương
Thanh trầm khơi nổi dòng thương
Giàn Đông hoa đã ảnh hường sắc mây (550)

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phạm Thiên Thư » VI. Vương mấy tơ đồng