28/03/2024 21:24Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Sài môn
柴門

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/02/2015 09:45

 

Nguyên tác

孤舟登瀼西,
回首望兩崖。
東城乾旱天,
其氣如焚柴。
長影沒窈窕,
餘光散唅呀。
大江蟠嵌根,
歸海成一家。
下沖割坤軸,
竦壁攢鏌鋣。
蕭颯灑秋色,
氛昏霾日車。
峽門自此始,
最窄容浮查。
禹功翊造化,
疏鑿就欹斜。
巨渠決太古,
眾水為長蛇。
風煙渺吳蜀,
舟楫通鹽麻。
我今遠遊子,
飄轉混泥沙。
萬物附本性,
約身不願奢。
茅棟蓋一床,
清池有餘花。
濁醪與脫粟,
在眼無咨嗟。
山荒人民少,
地僻日夕佳。
貧病固其常,
富貴任生涯。
老於干戈際,
宅幸蓬蓽遮。
石亂上雲氣,
杉清延月華。
賞妍又分外,
理愜夫何誇。
足了垂白年,
敢居高士差。
書此豁平昔,
回首猶暮霞。

Phiên âm

Cô chu đăng Nhương Tây,
Hồi thủ vọng lưỡng nha.
Đông thành can tảo thiên,
Kỳ khí như phần sài.
Trường ảnh một yểu điệu,
Dư quang tán hàm nha.
Đại giang bàn khảm căn,
Quy hải thành nhất gia.
Hạ xung cát khôn trục,
Tủng bích toản Mạc Gia.
Tiêu táp sái thu sắc,
Phân hôn mai nhật xa.
Giáp môn tự thử thuỷ,
Tối trách dung phù tra.
Vũ công[1] dực tạo hoá,
Sơ tạc tựu kỳ khoa.
Cự cừ quyết thái cổ,
Chúng thuỷ vi trường xà.
Phong yên diểu Ngô, Thục,
Chu tiếp thông diêm ma.
Ngã kim viễn du tử,
Phiêu chuyển hỗn nê sa.
Vạn vật phụ bản tính,
Ước thân bất nguyện xa.
Mao đông cái nhất sàng,
Thanh trì hữu dư hoa.
Trọc lao dữ thoát túc,
Tại nhãn vô tư ta.
Sơn hoang nhân dân thiểu,
Địa tích nhật tịch giai.
Bần bệnh cố kỳ thường,
Phú quý nhiệm sinh nha.
Lão ư can qua tế,
Trạch hạnh bồng tất già.
Thạch loạn thướng vân khí,
Sam thanh diên nguyệt hoa.
Thưởng nghiên hựu phân ngoại,
Lý khiếp phu hà khoa.
Túc liễu thuỳ bạch niên,
Cảm cư cao sĩ soa.
Thư thử khoát bình tích,
Hồi thủ do mộ hà.

Dịch nghĩa

Thuyền đơn độc lên Nhương Tây,
Quay đầu nhìn hai bờ.
Đông thành trời khô ráo,
Hơi của nó như ai đang đốt củi.
Bóng dài mất vẻ duyên dáng,
Ánh sáng còn rơi rớt xuống vực thẳm.
Sông lớn có nhiều nguồn gốc trải rộng,
Chảy ra biền thì thành một dòng.
Đổ xuống như cắt trục đất,
Soi bờ như thanh kiếm có tên là Mạc Gia.
Sắc mùa thu toả ra ảm đạm,
Khí mờ che lấp cả xe mặt trời.
Cửa kẽm bắt đầu từ đây,
Rất hẹp cho bè nổi đi qua.
Công ông Vũ đã trợ giúp tạo hoá,
Đục sơ sơ mà thành lối thiết kế lớn.
Những rãnh lớn khơi từ thời rất xưa,
Các dòng nước hợp lại như con rắn dài.
Gió khói mờ cả vùng Ngô, Thục,
Thuyền bè trao đổi muối với sợi gai.
Tôi nay là một gã xa nhà,
Lóp ngóp nơi cát bùn đục.
Vạn vật nương vào bản tính của nó,
Giữ mình không dám hoang phí.
Nóc tranh che một cái giường,
Ao trong có thừa hoa.
Rượu thuốc cùng gạo lật,
Trước mắt chẳng than van.
Núi hoang dân số ít,
Đất chật trời chiều đẹp.
Nghèo và bệnh vẫn là sự thường,
Giàu sang tuỳ thuộc vào cách kiếm sống.
Tuổi già gặp lúc loạn lạc,
Nhà ở may có cỏ tranh che.
Đá vèo vèo bay lên mây mù,
Cây sam sạch xoè ra dưới trăng đẹp.
Thưởng thức cái đẹp chẳng đến phần mình.
Lo thoả lòng thì có gì để mà khoe.
Đủ rồi ở vào tuồi có tóc bạc,
Đâu dám sánh với bậc cao sĩ.
Viết điều này lại chợt nhớ thuở trước,
Quay đầu lại thì chỉ thấy ráng chiều thôi.

Bản dịch của Phạm Doanh

Nhương Tây, một buồm con lên đến,
Quay dầu coi hai bến với bờ.
Phía đông thành, trời sớm khô,
Không khí hừng hực tưởng như cháy đồi.
Bóng lướt dài hết thời duyên dáng,
Còn chút dư ánh sáng vực sâu.
Sông dài nguồn trải quanh co,
Khi ra tới biển gồm thu một dòng.
Khi đổ xuống tưởng tung trục đất,
Soi bờ như kiếm sắt Mạc Gia.
Sắc thu phủ xuống mờ mờ,
Xe trời bị khối hơi mù lấp sâu.
Chỗ này nơi bắt đầu cửa giáp,
Chiếc bè con chật hẹp bềnh bồng.
Giúp trời, ông Vũ có công,
Đục sơ mà tạo nên khung tuyệt vời.
Dòng nước lớn từ thời thái cổ,
Chảy ngoằn ngoèo như lũ rắn dài.
Ngô, Thục một giải mây hơi,
Thuyền bè chuyên chờ muối, gai đi về.
Tôi, nay gã xa quê, lang bạt,
Trên bùn hôi, bãi cát ngả nghiêng.
Vạn vật đều có tính riêng,
Giữ tính khắc khổ tránh đường phí phung.
Dưới mái cỏ một giường kê đó,
Ao trong kia có đủ hoa thơm.
Rượu thuốc, gạo lức nấu cơm,
Trước mắt chẳng có than van chút nào.
Trong núi hoang dân sao ít ỏi,
Đất chật nên ngày khối cái hay.
Nghèo, bệnh vẫn cứ thày lay.
Có được phú quý là may trên đời.
Già nay sa vào nơi loạn lạc,
Nhà được may cỏ lác tranh che.
Đá tung lên tận mây mù,
Cây sam dưới bóng trăng mờ mông mênh.
Hường cái đẹp phần mình chẳng tới,
Cố thoả lòng không cái gì khoe.
Đủ rồi ở tuổi tóc hoe,
Cao sĩ đâu dám lăm le dự vào.
Đến đây chợt nhớ thuở nào,
Quay đầu nhìn lại, biết bao ráng chiều.
(Năm 767)

[1] Vua Vũ đời Hạ giúp vua Thuấn trị thuỷ nên sau này được nhường ngôi.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Sài môn