26/03/2023 04:52Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 26/10/2005 17:47

Nguyên tác
岱宗夫如何?
齊魯青未了。
造化鍾神秀,
陰陽割昏曉。
盪胸生層雲,
決眥入歸鳥。
會當凌絕頂,
一覽眾山小。
Phiên âm
Ðại Tông[1] phù như hà?
Tề Lỗ[2] thanh vị liễu.
Tạo hoá chung thần tú,
Âm dương[3] cát hôn hiểu.
Ðãng hung sinh tằng vân,
Quyết tý nhập quy điểu.
Hội đương lăng tuyệt đính,
Nhất lãm chúng sơn tiểu.Dịch nghĩa
Núi Ðại Tông như thế nào?
Ðất Tề, đất Lỗ màu xanh không ngớt.
Tạo hoá hun đúc nét đẹp khí thiêng ở đó,
Sườn núi bắc (âm), nam (dương) phân chia chiều sớm.
Lòng (ngực) núi dao động phát sinh lớp lớp khói mây
Giương mắt đắm vào bầy chim về tổ.
Ðược dịp lên tận đỉnh cao chót vót,
Ngắm nhìn mới thấy núi non chung quanh đều nhỏ béBản dịch của mailang
Đại Tông núi ấy ra sao ?
Một vùng Tề, Lỗ dạt dào màu xanh.
Đẹp thiêng tạo hoá hun thành,
Âm dương sáng tối, phân ranh đôi bờ.
Ngực tuông lớp lớp mây mờ,
Chim về mắt dõi muốn đờ con ngươi.
Giá gì lên mút đỉnh chơi,
Núi non bốn cõi trông vời bé con.
(Năm 740)
Bài này làm khi Đỗ Phủ đến Lạc Dương, thi hỏng rồi đi chơi Tề, Triệu trong khoảng 736-740. Trung Quốc có năm ngọn núi cao (ngũ nhạc), ở đây là núi Thái Sơn.
[1] Tức núi Thái Sơn.
[2] Tên hai nước, bây giờ ở tỉnh Sơn Đông.
[3] Phía sau núi gọi là âm, phía trước là dương.