28/04/2024 01:36Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hạ Tống, Lê, Đỗ tam ngự sử
賀宋黎杜三御使

Tác giả: Nguyễn Phi Khanh - 阮飛卿

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trần
Đăng bởi Vanachi vào 05/07/2008 05:40

 

Nguyên tác

烏臺久矣噤無聞,
聖主開誠妙選掄。
慶歷昔聞揚四諫,
昌符今喜擢三人。
已將風采儀朝著,
好把精忠動紫宸。
留取聲名光萬古,
世間岐路總煙塵。

Phiên âm

Ô đài[1] cửu hỹ cấm vô văn,
Thánh chúa khai thành điệu tuyển luân.
Khánh Lịch[2] tích văn dương tứ gián,
Xương Phù[3] kim hỷ trạc tam nhân.
Dĩ tương phong thái nghi triều trứ,
Hảo bả tinh trung động tử thần.
Lưu thủ thanh danh quang vạn cổ,
Thế gian kỳ lộ tổng yên trần.

Dịch nghĩa

Đã lâu rồi chốn Ô Đài lặng bặt không nghe gì,
Nay thánh chúa mở lòng thành, khéo léo lựa chọn.
Từng nghe đời Khánh Lịch khen bốn vị gián nghị.
Nay mừng năm Xương Phù cất nhắc ba người.
Đã đem phong thái làm khuôn mẫu ở triều đình,
Hãy mang lòng trung khích động điện tía.
Gắng lưu lại tiếng tăm soi sáng muôn thuở,
Những con đường rẽ trên đời này thảy đều khói bụi.

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Đã lâu bặt tiếng chốn Ô Đài
Thánh thượng mở lòng khéo chọn tài
Khánh Lịch gián quan thăng bốn vị
Xương Phù ngự sử cử ba ngài
Đã mang phong thái làm quy tắc
Xúc động lòng trung lại đến ngai
Danh tiếng giữ gìn soi vạn thuở
Thế gian đường rẽ khói trần ai.
[1] Chỉ đài ngự sử. Theo Hán thư: “Bên toà ngự sử có khóm cây bách, hàng nghìn con quạ đến đậu ở đó”. Vì thế đài ngự sử mói được gọi là Ô đài (Đài quạ đen).
[2] Tống Nhân Tông (1010-1063), niên hiệu Khánh Lịch có thăng bốn người nổi tiếng trung trực làm quan Gián nghị đại phu đó là: Âu Dương Tu, Dư Tĩnh, Thái Tương và Vương Tố.
[3] Niên hiệu (1377-1388) của vua Trần Phế Đế.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Phi Khanh » Hạ Tống, Lê, Đỗ tam ngự sử