27/04/2024 06:16Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Nhai Môn yết Tam Trung từ
崖門謁三忠祠

Tác giả: Trần Cung Doãn - 陳恭尹

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thanh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/04/2019 20:32

 

Nguyên tác

山嶺蕭蕭風又吹,
兩崖波浪至今悲。
一聲望帝啼荒殿,
十載愁人拜古祠。
海水有門分上下,
江山無地限華夷。
停舟我亦艱難日,
畏向蒼苔讀舊碑。

Phiên âm

Sơn lĩnh tiêu tiêu phong hựu xuy,
Lưỡng nhai ba lãng chí kim bi.
Nhất thanh Vọng Đế[1] đề hoang điện,
Thập tải sầu nhân[2] bái cổ từ.
Hải thuỷ hữu môn phân thượng hạ,
Giang sơn vô địa hạn Hoa Di.
Đình chu ngã diệc gian nan nhật,
Uý hướng thương đài độc cựu bi.

Dịch nghĩa

Rừng núi hắt hiu gió còn thổi
Sóng vỗ hai vách buồn đến nay
Một tiếng của Vọng Đế kêu ở điện hoang
Mười năm người buồn đến bái yết đền cổ
Nước biển còn có cửa chia trên dưới
Núi sông không đất vạch ra Rợ và Hoa
Dừng thuyền ta cũng đang sống những ngày lận đận
Ngại đến đọc bia xưa phủ rêu xanh

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Núi rừng hiu hắt gió còn qua
Hai vách sóng xô hận chẳng nhoà
Một tiếng kêu đài hoang Vọng Đế
Mười năm yết miếu cổ sầu ta
Có nơi nước biển chia trên dưới
Không chốn non sông vạch Rợ Hoa
Ta cũng dừng thuyền ngày lận đận
Ngại ngùng đến đọc nét rêu bia
Nhai Môn tức Nhai Môn sơn, ở trong huyện Nam Hải, Tân Hội, Quảng Đông, cuối đời Tống là căn cứ chống Nguyên cuối cùng. Năm Tống Tường Hưng thứ 2, quân Tống thua trận, Lục Tú Phu cõng vua Tống Triệu Bính nhảy xuống biển. Tam Trung từ là đền thờ ba vị anh hùng dân tộc cuối Tống: Văn Thiên Tường, Lục Tú Phu, Trương Thế Kiệt. Đền xây đúng nơi Lục Tú Phu trẫm mình.

[1] Tương truyền xưa vua Thục là Đỗ Vũ xưng hiệu là Vọng Đế.
[2] Tác giả tự xưng. Khi làm bài thơ này, triều Minh mất đã 10 năm.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trần Cung Doãn » Nhai Môn yết Tam Trung từ