30/03/2024 00:57Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 16/03/2015 10:38
Nguyên tác
一匱功盈尺,
三峰意出群。
望中疑在野,
幽處欲生雲。
慈竹春陰覆,
香爐曉勢分。
惟南將獻壽,
佳氣日氛氳。
Phiên âm
Nhất quỹ công doanh xích,
Tam phong ý xuất quần.
Vọng trung nghi tại dã,
U xứ dục sinh vân.
Từ trúc xuân âm phúc,
Hương lô hiểu thế phân.
Duy nam tương hiến thọ,
Giai khí nhật phân uân.Dịch nghĩa
Đặt một cái khuôn cỡ hơn thước,
Trồng trúc có ba bụi tỏ ý vượt hon người.
Nhìn vào trong đó tưởng là ở trong cánh đồng,
Trong cái vùng mờ ảo đó tưởng có mây trôi.
Trúc hiền phủ trên bóng mát,
Lúc sáng, bình hương chia rỏ hai nơi: chỗ khói, chỗ không.
Duy có ông làm việc ở nam tào dâng lễ,
Khí lành ngày một tốt tươi.Bản dịch của Phạm Doanh
Một hòm, công đủ thước,
Ba chỏm ý hơn người.
Khi nhìn tưởng trong ruộng,
Chốn khuất có mây trôi.
Trúc lành che bóng mát,
Lò hương sớm chia đôi.
Riêng cậu dâng lễ chúc,
Khí lành ngày tốt tươi.
(Năm 742)
Năm đầu Thiên Bảo tức năm 742. Nam tào là quan đời Đường thuộc bộ lại, đặt dưới quyền một viên ngoại lang, phụ
trách điều tra nhân viên cùng là xét thành tích để báo cáo lên cấp trên hầu thăng thưởng hay trừng phạt. Tiểu tư khấu là một chức quan dưới quyền quan đại tư khấu. Bà nội của Đỗ Phủ có họ Lô. Từ trúc là loại trúc có cành lá xum xuê bao vây lấy thân chính, hệt đàn con quấn quít bên mẹ, còn gọi là “điếu ty trúc” 釣絲竹, “từ hiếu trúc” 慈孝竹.