27/04/2024 03:13Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Kỳ lân mộ
騏麟墓

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể); Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 20/12/2005 01:08

 

Nguyên tác

河北道中五尺豐碑當大路,
中有楷字大書騏麟墓。
道傍故老為余言,
永樂四年貢麟道死喪此土。
官命立碑用存故,
此事迄今已經古。
但見官道蕩蕩無丘陵,
其旁不封亦不樹。
片石傾欺苔蘚蔓,
淒風朝吹暮苦雨。
吁嗟麟兮何由睹,
吁嗟麟兮天上祥。
骨肉委之虫蛾蠹,
麟兮麟兮爾何苦。
何況燕棣何如人,
奪姪自立非仁君。
暴怒一逞夷十族,
大棒巨鑊烹忠臣。
五年所殺百餘萬,
白骨成山地血殷。
麟兮果為此人出,
大是妖物何足珍。
或是爾生不忍見殺戮,
先就此地捐其身。
吁嗟仁獸兮騏麟。
於世不見以為祥,
見之不過同犬羊。
若道能為聖人出,
當世何不南遊翔。

Phiên âm

Hà Bắc đạo trung ngũ xích phong bi đương đại lộ,
Trung hữu khải tự đại thư kỳ lân mộ.
Đạo bàng cố lão vị dư ngôn,
Vĩnh Lạc[1] tứ niên cống lân[2] đạo tử táng thử thổ.
Quan mệnh lập bi dụng tồn cố,
Thử sự hất kim dĩ kinh cổ.
Đãn kiến quan đạo đãng đãng vô khâu lăng,
Kỳ bàng bất phong diệc bất thụ.
Phiến thạch khuynh khi đài tiển man,
Thê phong triêu xuy mộ khổ vũ.
Hu ta lân hề hà do đổ,
Hu ta lân hề thiên thượng tường.
Cốt nhục uỷ chi trùng nghĩ đố,
Lân hề lân hề nhĩ hà khổ.
Hà huống Yên Đệ[3] hà như nhân,
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân.
Bạo nộ nhất sính di thập tộc,
Đại bổng cự hoạch phanh trung thần[4].
Ngũ niên sở sát bách dư vạn[5],
Bạch cốt thành sơn địa huyết an.
Lân hề quả vị thử nhân xuất,
Đại thị yêu vật hà túc trân.
Hoặc thị nhĩ sinh bất nhẫn kiến sát lục,
Tiên tựu thử địa quyên kỳ thân.
Hu ta nhân thú hề kỳ lân.
Ư thế bất kiến dĩ vi tường,
Kiến chi bất quá đồng khuyển dương.
Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất,
Đương thế hà bất nam du tường[6].

Dịch nghĩa

Trên đường đi Hà Bắc có tấm bia cao năm thước dựng bên đường cái.
Trong có mấy chữ viết to theo lối chữ chân: “Mộ Kỳ Lân”
Ông lão ở bên đường bảo ta rằng:
“Năm Vĩnh Lạc thứ tư, con kỳ lân đem cống vua, chết giũa đường, chôn tại đây.
Quan trên cho dựng bia để ghi lại việc cũ.”
Việc ấy đến nay đã lâu rồi,
Nay chỉ còn thấy con đường cái quan bằng phẳng không gò đống
Cạnh bia chẳng đắp mộ cũng không trồng cây.
Phiến đá xiêu vẹo, rêu phủ mờ,
Sáng gió lạnh thổi, chiều mưa dầm dề tuôn,
Than ôi, kỳ lân vì đâu mày hiện ra?
Than ôi, kỳ lân là giống vật báo điềm lành ở trên trời!
Nay xương thịt bỏ cho sâu kiến đục.
Ôi kỳ lân! Ôi kỳ lân! Sao mày khổ thế!
Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào?
Cướp ngôi của cháu để tự lập làm vua, y không phải là bậc nhân quân.
Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta)
Giết trung thần bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn.
Trong năm năm giết trên trăm vạn mạng người,
Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu.
Ôi kỳ lân! nếu mày vì kẻ ấy mà hiện ra,
Thì mày chỉ là đồ yêu quái, có gì đáng quý?
Hoặc là mày sống ở đời không nỡ nhìn cảnh chém giết,
Nên đến chỗ này mày chết trước.
Than ôi! kỳ lân là loài thú có đức nhân!
Trên trời chẳng thấy nên cho là điềm lành.
Thấy thì chẳng qua cũng như loài chó dê.
Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện ra.
Thì thời ấy sao không lượn chơi sang phương Nam?

Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Đường đi Hà Bắc ngay đường cái,
Bia cao đề chữ khải Kỳ Lân.
Bên đường ông lão kể rằng,
Đời vua Vĩnh Lạc có lần cống lân.
Nhưng giữa đường bất thần lân chết,
Quan trên truyền để vết về sau.
Dựng bia đào mộ chôn sâu,
Việc này thuở đó đã lâu lắm rồi.
Nhìn chẳng thấy gò đồi đâu cả,
Đất không bồi, cạnh mả không cây.
Đá bia nghiêng đổ, rêu đầy,
Sớm mai lạnh gió, chiều rày dầm mưa.
Lân ơi hỡi, hiểu chưa chưa hiểu,
Trên trời kia báo hiệu điềm lành.
Thịt xương sâu kiến đục quanh,
Lân ơi, lân hỡi, sao đành khổ thân.
Còn Yên Đệ thêm phần nhơ nhuốc,
Cướp ngôi vua thân thuộc cháu mình.
Nổi cơn chẳng chút thương tình,
Mười dòng họ cả gia đình diệt luôn.
Trung thần cứ luông tuồng đánh giết,
Nấu vạc dầu đến chết vạn trăm.
Năm năm bách hại muôn vàn,
Xương cao chất núi, máu tràn ngập sông.
Lân hỡi, nếu vì ông vua đó,
Mà ra đời thì có gì hay.
Đúng là yêu quái chi đây,
Quý gì thứ đó mà ai đem thờ.
Hoặc đau lòng cuộc cờ chém giết,
Nên đến đây mi chết cho rồi.
Lân ơi, lân hỡi, lân ơi,
Người ta chưa thấy nên đời dị đoan.
Thấy rõ rồi cũng toàn dê chó.
Bảo thấy lân là có thánh nhân,
Nước Nam thời đó nhân quân,
Sao không bay liệng một lần sang chơi?
Theo sách cổ, kỳ lân là linh thú, báo hiệu điềm lành, đời thịnh trị, kỳ lân ra đời là có thánh nhân xuất hiện.

[1, 3] Vĩnh Lạc, Yên Đệ: Yên Đệ, con thứ sáu của Minh Thái Tổ 明太祖 (1368-1398), đã cướp ngôi của cháu là Minh Huệ Đế 明惠帝 (1399-1402), tự lập lên làm vua Minh Thành Tổ 明成祖, niên hiệu Vĩnh Lạc 永樂 (1403-1424). Đại thần Phương Hiếu Nhụ chống lệnh không chịu thảo chiếu cho Yên Đệ lên ngôi, bị đánh tan xác, cả mười họ bị tru di.
[2] Con kỳ lân đem dâng vua. Kỳ là con đực, Lân là con cái, gọi chung là kỳ lân. Theo sách cổ. kỳ lân là giống linh thú, không giẫm lên vật sống, không bẻ cành cây tươi, nên gọi là giống thú có nhân, chỉ khi nào có thánh nhân thì kỳ lân mới xuất hiện. Do đó kỳ lân là điềm lành báo hiệu thời thịnh trị.
[4] Yên Vương Đệ là Chú Minh Huệ Đế (1399-1402) cướp ngôi cháu làm vua, gọi là Minh Thành Tổ. Y sai đại thần là Phương Hiếu Nhụ thảo chiếu lên ngôi. Hiếu Nhụ viết bốn chữ lớn “Yên tặc thoán vị” (giặc Yên cướp ngôi) rồi ném bút nói: “Chết thì chết, chiếu không thảo”. Đệ giận bảo: “Không nghĩ đến chín họ sao?” (chín họ là tổ, cố, ông, cha, bản thân, và con cháu chút chít). Nhụ giận bảo: “Dù giết mười họ ta cũng không sợ”. Tức thì Đệ cho đánh tan xác và phanh thây Hiếu Nhụ rồi bắt các học trò ông quy làm một họ, cộng thành mười, đem giết hết.
[5] Minh Thành Tổ là một tên vua bạo tàn, thích gây chiến để mở rộng đất đai, như Nguyễn Trãi đã nói nhiều lần trong các bứa thư ở tập Quân trung từ mệnh. Chính Minh Thành Tổ đã đã xâm lược nước Việt, vơ vét vàng bạc, giết hại nhân dân, lại bắt hàng vạn đinh tráng, phụ nữ và nhi đồng giải về Trung Quốc, làm nô lệ và xây đắp thành Bắc Kinh để dời kinh đô lên đó.
[6] Thời kỳ đó, ở nước ta, Bình Định Vương Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi khởi nghĩa chiến thắng quân Minh (1418-1427). Nguyễn Du mượn cái chết của con kỳ lân để nói lên lòng căm giận của mình đối với tên bạo chúa ấy. Trước ông trừ Nguyễn Trãi, ít có tác giả Việt Nam nói rõ tội ác của Minh Thành Tổ, thậm chí có người còn theo sử gia phong kiến Trung Quốc cho hắn là vị vua anh hùng.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Kỳ lân mộ