28/04/2024 06:45Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khí thiếp thiên
棄妾篇

Tác giả: Kiều Tri Chi - 喬知之

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Sơ Đường
Đăng bởi Vanachi vào 27/11/2006 06:17

 

Nguyên tác

妾本叢台右,
君在雁門陲。
悠悠淇水曲,
彩燕入桑枝。
不因媒結好,
本以容相知。
容謝君應去,
情移會有離。
還君結縷帶,
歸妾織成詩。
此物雖輕賤,
不用使人嗤。

Phiên âm

Thiếp bản Tùng Đài[1] hữu,
Quân tại Nhạn Môn[2] thuỳ.
Du du Kỳ thuỷ khúc,
Thái yến nhập tang chi.
Bất nhân môi kết hảo,
Bản dĩ dung tương tri.
Dung tạ quân ưng khứ,
Tình di hội hữu ly.
Hoàn quân kết lũ đới[3],
Quy thiếp chức thành thi[4].
Thử vật tuy khinh tiện,
Bất dụng sử nhân xuy.

Dịch nghĩa

Em vốn quê ở bên phải đài Tùng,
Chàng đóng tại ải Nhạn Môn ngoài biên thuỳ.
Dòng sông Kỳ man mác,
Chim én rực rỡ bay vào cành dâu.
Không do mối mai kết đôi,
Do dung mạo mà quen biết nhau.
Dung nhan tàn tạ chàng muốn đi,
Tình hết tất phải xa nhau.
Trả lại chàng đai lưng kết bằng sợi tơ,
Cho em xin lại bài thơ em dệt thành.
Vật này tuy nhỏ hèn,
Đừng mang nó ra cho người cười.

Bản dịch của kimthoty @www.tvvn.org

Thiếp quê vốn cạnh Tùng Đài
Còn chàng trú tại biên thùy Nhạn Môn
Sông Kỳ dằng dặc uốn quanh
Những bầy chim én  nhập cành dâu tươi
Nhờ người mai mối kết đôi
Dung nhan đẹp đẽ một thời biết nhau
Đến kỳ bóng sắc tàn phai
Chàng ra đi để sầu dài biệt ly
Trả chàng đai kết bằng tơ
Xin trao lại thiếp bài thơ gấm vàng
Tuy là vật mọn không sang
Vì không dùng để tiếng làng cười chê.
[1] Đài vua Triệu xây thời Chiến Quốc, ở thành Hàm Đan, nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
[2] Ải Nhạn Môn thuộc huyện Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây.
[3] Đai lưng kết bằng tơ.
[4] Bài thơ dệt trên gấm.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Kiều Tri Chi » Khí thiếp thiên