16/04/2024 21:52Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hựu thướng hậu viên sơn cước
又上後園山腳

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi hongha83 vào 11/02/2012 14:24

 

Nguyên tác

昔我遊山東,
憶戲東嶽陽。
窮秋立日觀,
矯首望八荒。
朱崖著毫發,
碧海吹衣裳。
蓐收困用事,
玄冥蔚強梁。
逝水自朝宗,
鎮名各其方。
平原獨憔悴,
農力廢耕桑。
非關風露雕,
曾是戍役傷。
於時國用富,
足以守邊疆。
朝廷任猛將,
遠奪戎虜場。
到今事反覆,
故老淚萬行。
龜蒙不復見,
況乃懷舊鄉。
肺萎屬久戰,
骨出熱中腸。
憂來杖匣劍,
更上林北岡。
瘴毒猿鳥落,
峽幹南日黃。
秋風亦已起,
江漢始如湯。
登高欲有往,
蕩析川無梁。
哀彼遠征人,
去家死路旁。
不及祖父塋,
累累冢相當。

Phiên âm

Tích ngã du Sơn Đông,
Ức hý đông Nhạc Dương.
Cùng thu lập Nhật Quán[1],
Kiểu thủ vọng bát hoan.
Chu nhai trước hào phát,
Bích hải xuy y thường.
Nhục thu khốn dụng sự,
Huyền minh uý cường lương.
Thệ thuỷ tự triều tông,
Trấn danh các kỳ phương.
Bình nguyên độc tiều tuỵ,
Nông lực phế canh tang.
Phi quan phong lộ điêu,
Tằng thị thú dịch thương.
Ư thời quốc dụng phú,
Túc dĩ thủ biên cương.
Triều đình nhậm mãnh tướng,
Viễn đoạt nhung lỗ trường[2].
Đáo kim sự phản phục,
Cố lão lệ vạn hành.
Quy Mông[3] bất phục kiến,
Huống nãi hoài cựu hương.
Phế nuy thuộc cửu chiến,
Cốt xuất nhiệt trung trường.
Ưu lai trượng hạp kiếm,
Canh thượng lâm bắc cương.
Chướng độc viên điểu lạc,
Hạp can nam nhật hoàng.
Thu phong diệc dĩ khởi,
Giang Hán[4] thuỷ như thang.
Đăng cao dục hữu vãng,
Đãng tích xuyên vô lương.
Ai bĩ viễn trưng nhân,
Khứ gia tử lộ bàng.
Bất cập tổ phụ doanh,
Luỹ luỹ trủng tương đương.

Dịch nghĩa

Trước kia tôi tới vùng Sơn Đông,
Nhớ lúc vui ở phía đông núi.
Buổi cuối thu, đứng ở đỉnh Nhật Quán,
Ngạo nghễ đưa đầu nhìn tám phía.
Núi đỏ làm sáng lông tóc,
Bể biếc thổi áo quần.
Thần mùa thu gặp khó khăn trong việc sử dụng quyền mình,
Thần mùa đông thì huênh hoang sức mạnh.
Nước trôi tự quay về,
Núi đứng đều có sẵn hướng.
Đồng bằng riêng xác xơ,
Sức nhà nông bỏ cày ruộng, trồng dâu.
Chẳng phải là gió sương khe khắt,
Mà chính vì sưu thuế, phu dịch khiến ra thế.
Vào lúc đó chi phí việc nước có dư,
Đủ để gìn giữ biên cương.
Triều đình dùng những viên tướng tài,
Đi đoạt đất đai của các dân tộc ít người nơi xa.
Tới giờ việc đâm ra rắc rối,
Ông già rơi lệ ngàn hàng.
Đỉnh Quy Mông đã không được thấy lại,
Huống gì mong được về quê cũ.
Phổi rã vì chiến tranh,
Xương rời vì lòng nóng ran.
Buồn tới chống bao gươm,
Bèn lên gò rừng bắc.
Khí nóng bực khiến chim, khỉ lạc bầy,
Bến nam kẽm trời vàng úa.
Gió thu cũng đã nổi,
Vùng Giang Hán nước nóng như sôi.
Lên cao ước mong có chỗ tới,
Phân tán sông không dòng chính.
Thương cho kẻ đi xa,
Bỏ nhà chết bên đường.
Không gần được chỗ chôn ông bà,
Để liền liền cùng bên mộ.

Bản dịch của Nhượng Tống

Xưa kia ta tới Sơn Đông
Đùa lên đỉnh Thái xa trông phương trời
Cuối thu, Nhật Quán đứng chơi
Áo bay bể biếc tóc phơi nắng hồng
Bốn mùa tiết sắp sang đông
Từng phương núi đứng trăm sông nước về
Đồng bằng riêng vẻ ủ ê
Nương dâu ruộng lúa bốn bề bỏ hoang
Phải đâu tàn gió táp sương
Phu xua lính bắt đau thương bằng mười
Nước giàu các tướng có tài
Triều đình quyết cướp đất ngoài biên cương
Việc đời thay đổi không thường
Ông già bà cả muôn hàng lệ sa
Quy Mông cách mấy chừng xa
Trông vời nào thấy quê nhà ở đâu
Chiến tranh sốt ruột bấy lâu
Suyễn lên từng dạo, sườn đau đã chồn
Bên ngàn chống lưỡi gươm cùn
Buồn tình lại đứng đỉnh cồn trông ra
Úa vàng ánh nắng trời xa
Rừng thiêng vượn ngã chim sa nặng nề
Gió thu, sông chảy xiết ghê
Không cầu, không lái, muốn về chỉn khôn
Thương thay lạ nước lạ non
Bỏ nhà ai đó, chết chôn bên đường
Hồn tàn chẳng tới quê hương
Ông cha còn được nắm xương vùi gần
(Năm 767)

[1] Thuộc núi Thái Sơn, huyện Thái Am, tỉnh Sơn Đông.
[2] Nhắc tới việc An Lộc Sơn đi đánh nước Hề, Khiết đan và việc phản loạn của y sau này.
[3] Trong biên giới hai huyện Mông Âm 蒙陰 và Bình Ấp 平邑, thuộc tỉnh Sơn Đông.
[4] Chỉ Quỳ Châu vì nơi này nằm trong lưu vực sông Trường Giang và Hán Thuỷ.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Hựu thướng hậu viên sơn cước